Thứ Năm, 6 tháng 3, 2008

LUẬT TỤC Ê ĐÊ: NHÌN TỪ GÓC ĐỘ VĂN HÓA PHÁP LÝ

THS. VŨ THỊ BÍCH HƯỜNG  - Giảng viên ĐH Luật TP.HCM

Trình độ văn hóa nói chung và văn hóa pháp lý nói riêng không chỉ phản ánh bản sắc văn hóa mà còn phản ánh khả năng nhận thức và trình độ phát triển của một dân tộc. Ở nước ta hiện nay, bên cạnh hệ thống pháp luật thực định đang ngày càng được hoàn thiện vẫn còn tồn tại luật tục của các buôn làng người thiểu số, mà giá trị hiện thực của nó trong việc đảm bảo sự ổn định các quan hệ xã hội trong một cộng đồng người là điều không thể phủ nhận. Nếu hệ thống pháp luật thực định phản ánh trình độ văn hóa pháp lý của một cộng đồng người sinh sống trên lãnh thổ của một quốc gia thống nhất, thì luật tục lại phản ánh văn hóa pháp lý của một dân tộc – một bộ phận hợp thành khối dân cư thống nhất ấy. Trong bài viết này, chúng tôi nêu một số suy nghĩ về luật tục Ê Đê nhìn từ góc độ văn hóa pháp lý.

Ê Đê là cộng đồng người thống nhất về ý thức dân tộc, ngôn ngữ và văn hóa, là một dân tộc thiểu số bản địa ở Đaklak có trình độ phát triển và nền văn hóa tiêu biểu cho Đakalk. Trong các bản trường ca, nổi bật nhất là trường ca Đam San, cũng như trong đời sống hàng ngày, người Ê Đê đã khắc họa nên những trang sử hào hùng của dân tộc mình trong việc đánh giặc, đuổi cướp giữ buôn làng, giữ bến nước của ông bà, cha mẹ. Từ lâu, người Ê Đê đã sống quần cư trong những ngôi nhà dài. Mỗi nhà dài gồm nhiều gia đình, nhiều hộ, cùng là anh chị em ruột một dòng họ với nhau theo chế độ mẫu hệ. Hôn nhân cư trú bên vợ, con cái sinh ra mang họ mẹ. Đứng đầu đại gia đình là Khoa sang, đó là người đàn bà cao tuổi và có uy tín nhất, đứng ra trông nom tài sản, hướng dẫn sản xuất, điều hòa quan hệ giữa các thành viên, thay mặt đại gia đình quan hệ với xã hội. Một dòng họ nhỏ có thể cư trú trong một ngôi nhà dài. Một dòng họ lớn gồm nhiều nhà dài. Nhiều dòng họ làm thành một Buôn – cộng đồng tiêu biểu cho toàn xã hội.

Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, xã hội Ê Đê vẫn đang ở vào giai đoạn tan rã của công xã nguyên thủy. Tuy đã bắt đầu có sự phân hóa giàu nghèo, nhưng trong xã hội, các quan hệ sở hữu tập thể, của dòng họ và của cả buôn còn chi phối sâu sắc. Hình thức sản xuất chủ yếu là săn bắn, hái lượm, nương rẫy. Công cụ sản xuất thô sơ với chiếc xà gạc, cái cây chọc lỗ, tra hạt… nền sản xuất mang tính chất khép kín tự cung tự cấp. Hình thức trao đổi, phân phối sản phẩm chủ yếu bằng hiện vật, mang tính bình quân. Với lối sống du canh du cư, đốt rừng làm rẫy, việc no, đói phụ thuộc phần lớn vào tự nhiên và xem đó như là sự ban phát của tự nhiên. Vì thế, trong xã hội Ê Đê cổ truyền, đời sống hiện thực của con người gắn chặt với tín ngưỡng tâm linh. Họ tin vào lực lượng siêu nhiên, các vị thần ở 3 tầng thế giới: Trời, mặt đất và trong lòng đất, và đặt ra hàng loạt những lễ thức cầu xin sự trợ giúp của các đấng thần linh để đạt được những ước nguyện của mình: mùa màng tươi tốt, tránh được hoạn nạn, buôn làng có nhiều niềm vui và hạnh phúc.

Tính chất nền sản xuất, thiết chế gia đình, tín ngưỡng đã hình thành nên bản sắc văn hóa của người Ê Đê, trong đó có văn hóa pháp lý được thể hiện trong luật tục của họ1.

Mặc dù cuộc sống còn hoang sơ, nhưng sự hình thành luật tục của người Ê Đê đã phản ánh nhu cầu khách quan là: cần quản lý, phối hợp và điều chỉnh những mối quan hệ giữa các thành viên trong cộng đồng để duy trì sự tồn tại và phát triển. Trong quá trình đó, luật tục đã dần dần được hình thành từ những kinh nghiệm được chắt lọc qua cuộc sống của nhiều thế hệ, góp phần tạo nên các giá trị văn hóa tinh thần truyền thống của dân tộc, cụ thể hóa các chuẩn mực đạo đức, pháp lý theo quan niệm của người Ê Đê.

* Về cơ cấu của luật tục: Dựa vào 236 điều của luật tục đã được L. Sabatier2 sắp xếp thành 11 chương ta thấy: Nếu so sánh với một số bộ luật của các quốc gia phương Đông và phương Tây thời kỳ cổ đại khi những nước này mới thoát ra khỏi xã hội Công xã thị tộc như: Luật Hammurabi (Lưỡng Hà), Luật Manu (Ấn Độ), Luật 12 bảng (La Mã), thì Luật tục của người Ê Đê có những điểm tương đồng. Đó là không có sự phân định rõ ràng giữa các quy phạm điều chỉnh những quan hệ dân sự và những hành vi phạm tội. Điều này xuất phát từ một thực tế là do trình độ sản xuất thấp kém nên những quan hệ dân sự trong cộng đồng người Ê Đê còn rất mờ nhạt, đặc biệt là quan hệ trao đổi hàng hóa (mua bán, vay mượn), chỉ được quy định trong 6 điều, từ điều 186 đến điều 191 với nội dung rất đơn giản. Số lượng điều luật chiếm nhiều nhất và cũng chặt chẽ nhất là những điều luật quy định về Hôn nhân và gia đình (54 điều), đó là nhóm quan hệ xã hội rường cột nhất chi phối đời sống của từng cá nhân trong cộng đồng. Có thể thấy rằng, luật tục đã rất xem trọng yếu tố con người trong mối tương quan với thế giới tự nhiên, với cộng đồng và tín ngưỡng. Thứ đến là vấn đề sở hữu tài sản, được quy định trong 38 điều, nhưng đó là tài sản của gia đình mẫu hệ. Mọi của cải trong gia đình đều thuộc quyền quản lý của mẹ hay người đại diện cho mẹ là chị cả. Việc thừa kế tài sản cũng được tính theo dòng mẹ. Một phần của cải của người chồng đã chết cũng phải đem trả về cho mẹ hay chị em gái của anh ta (điều 182). Nhóm những điều luật chiếm vị trí thứ 3 về số lượng với 33 điều quy định mối quan hệ giữa người đứng đầu buôn với các thành viên, nhằm đảm bảo kỷ cương, đảm bảo quyền dân chủ, bình đẳng trong quan hệ cộng đồng buôn làng.

* Về nội dung của luật tục Ê Đê: Như các tác giả trong quá trình nghiên cứu và sưu tầm luật tục đã nhận định: Luật tục ở mức độ nào đó chỉ mới bó hẹp trong phạm vi một buôn3. Nhưng luật tục Ê Đê đã đề cập đến hầu hết các lĩnh vực khác nhau của đời sống, từ sản xuất, tổ chức xã hội và quan hệ cộng đồng, gia đình và quan hệ gia đình, quan hệ nam nữ đến lễ nghi, tín ngưỡng…

Luật tục đã phản ánh tư duy duy lý dân gian của người Ê Đê trong quá trình tồn tại và phát triển. Những khuôn khổ, cách thức sống được đặt ra không đơn thuần là sự nhận thức cảm tính mà đã được định hình bằng những lý lẽ được coi như chân lý mà ai cũng phải nghe theo, không còn sự lựa chọn nào khác. Ví dụ như: Trong gia đình con cái phải nghe theo lời cha mẹ, ngoài cộng đồng mỗi thành viên phải nghe theo lời của trưởng buôn, ai làm trái với điều ấy phải đưa ra xét xử, đó là quy tắc. Những lý lẽ đưa ra để thuyết phục người ta cần phải xử sự theo quy tắc đó là:

Có cây đa thì phải hỏi cây đa, có cây sung thì phải hỏi cây sung, có mẹ cha thì phải hỏi mẹ cha.

Kẻ như lưỡi dao lại muốn dày hơn sống dao, là một trẻ nít lại muốn khôn ngoan hơn người lớn; có mẹ, có cha mà không hỏi mẹ cha.

Có cây đa đầu suối, có cây sung đầu làng, người trông nom dân làng mà không hỏi. Hắn đi rừng lấy củi mà không hỏi cha, đi suối lấy nước mà chẳng nói với mẹ; bán

cái này, mua cái nọ mà không hỏi các ông già bà cả.

Như vậy là có chuyện sai lầm phải đưa ra xét xử (Điều 27).

Những lý lẽ ấy đã được bắt nguồn từ chính cuộc sống hiện thực mà con người không thể phủ nhận, tạo cho họ niềm tin và dẫn dắt họ trong cuộc sống.

Xuyên suốt 236 điều trong luật tục là tính cộng đồng với tinh thần bình đẳng, dân chủ, bác ái. Dù là việc xảy ra trong một gia đình, một dòng họ như: kết hôn, sinh tử… mọi người vẫn ghé vai gánh vác xem như đó là công việc chung. Cho đến những việc như sửa sang bến nước, tế lễ thần linh hoặc hệ trọng hơn như bảo vệ an ninh cho buôn làng, các chủ hộ đều được chủ làng, chủ bến nước mời tới bàn bạc và đóng góp. Trẻ mồ côi, người thiếu ăn, bệnh hoạn, đều được mọi người nâng đỡ, chở che. Lối sống dân chủ, bác ái ấy đã gắn bó con người lại với nhau, mỗi người, mỗi nhà đều tự coi là một thành viên không

thể rời xa cộng đống. Luật tục đã quy định rất rõ trách nhiệm của mỗi cá nhân, của cá nhân với cộng đồng, đồng thời cũng nêu rõ trách nhiệm của thân tộc đối với mỗi thành viên trong dòng họ, nhằm mục đích tạo nên sự bình đẳng giữa các thành viên. Không có sự phân biệt, ưu đãi tầng lớp trên, hoặc ngược đãi tầng lớp dưới trong mọi lĩnh vực của đời sống buôn làng.

* Về cơ chế điều chỉnh của luật tục: Luật tục được hình thành và tồn tại trong đời sống của người Ê Đê đã đáp ứng được nhu cầu khách quan mà bất kỳ một cộng đồng người nào, một thiết chế xã hội nào cũng cần đến, đó là nhu cầu về quản lý. Nhưng do phương thức sản xuất còn ở trình độ thấp nên nhu cầu quản lý cũng như tính chất của hoạt động quản lý còn khá đơn giản, vì thế nên luật tục có cơ chế điều chỉnh riêng của nó. Bằng nhiều cách thức như: giáo dục, răn đe, xử phạt, luật tục đã tác động đến nhận thức và hành vi của các thành viên trong cộng đồng, tạo nên một trật tự cần thiết cho các hoạt động chung như: tổ chức sản xuất, bảo vệ buôn làng… và bảo vệ lợi ích của từng cá nhân, từng dòng họ. Nhưng vượt lên trên các phương pháp cụ thể ấy là nguyên tắc tự quản kết hợp với những quan niệm về tín ngưỡng.

Cuộc sống của người Ê Đê gắn bó chặt chẽ với thế giới tự nhiên, chan hòa với thế giới tự nhiên. Họ lấy từ tự nhiên những sản vật phục vụ cho nhu cầu của mình. Dựa vào mặt trời, mặt trăng để định đơn vị thời gian: Ngày đêm (mặt trời), tháng (mặt trăng), năm (mùa rẫy, mùa hoa, mùa chim bay về và bay đi). Tuy vậy, con người vẫn thấy bất lực trước thiên nhiên, vũ trụ bao la. Những tai họa cứ bất thần ập đến, tàn phá cây trồng, giết hại người và gia súc… con người trở nên nhỏ bé, yếu ớt và họ tìm chỗ dựa tinh thần bằng việc tưởng tượng ra các vị thần linh, và tin rằng chỉ có các vị thần ấy mới có sức mạnh hơn con người. Thần Aê Điê là thần tối cao trông coi cả 3 thế giới: tầng trời, mặt đất và tầng dưới đất; các thần thời tiết: Yang Liê (bão tố), Yang Briêng (thần tai nạn)… mỗi thần đều có tác động nhất định đến con người. Mùa màng bị tàn phá là do sự trừng phạt của thần ác đối với con người. Khi được mùa là do thần thiện ưu ái với con người. Và để các vị thần vừa lòng mà ra tay giúp đỡ, hay ngưng lại sự trừng phạt, con người phải tổ chức những lễ nghi cầu khấn, suy tôn. Sự gắn bó con người với các vị thần linh đã hình thành nên cơ chế tự điều chỉnh, con người cảm thấy có một lực lượng vô hình luôn kiểm tra, theo dõi và uốn nắn hành vi của họ. Vì thế mà mỗi cá nhân, mỗi gia đình, dòng họ đều tự răn mình và giáo dục các thành viên khác điều chỉnh hành vi theo quy định của luật tục, ngăn chặn những hành vi làm thương tổn đến lợi ích của người khác và của cộng đồng, hướng con người tới các điều thiện. Khi các cá nhân không tự điều chỉnh và có sự vi phạm luật tục hoặc có những mâu thuẫn, xung đột với nhau mà không tự giải quyết được thì sẽ có sự can thiệp của cộng đồng bằng một thiết chế có tính quyền lực – Tòa án phong tục. Trong mỗi buôn Ê Đê đều có những Khoa phat kđi – là người am hiểu và thông thuộc luật tục, có uy tín trong buôn làng (thường là các già làng) – đứng ra giải quyết các mâu thuẫn, xung đột. Trong xử kiện, Khoa phat kđi đọc luật tục (bằng văn vần) và sử dụng các biện pháp của nghi thức cổ truyền, rồi sau đó phán xử như một ông chánh án được tín nhiệm tuyệt đối. Khi mỗi bên nguyên, bên bị đã được xét xử xong, bao giờ cũng kèm theo một nghi lễ nhằm chấm dứt những thù oán giữa các bên với sự chứng giám của các vị thần linh và dân chúng. Vấn đề đáng quan tâm ở đây là, những điều ghi trong luật tục cũng như cách giải quyết của tòa án phong tục chủ yếu là hòa giải, giáo dục hơn là kết tội, trừng phạt. Ngay cả khi một người bị quy tội thì biện pháp trừng phạt thực chất vẫn là một hình thức hòa giải, giáo dục. Hiện nay, Tòa án phong tục chỉ còn có ở những vùng xa các đô thị, xa các trục lộ giao thông chính. Những nơi không còn tòa án phong tục thì thay vào đó là nhóm, tổ hòa giải để giải quyết các mâu thuẫn, xung đột xảy ra trong buôn trên cơ sở luật tục, mà biện pháp chính vẫn là hòa giải, giáo dục, răn đe. Chỉ khi nào Tổ hòa giải không xử lý được thì vụ việc mới được chuyển lên Tòa án nhân dân cấp huyện, tỉnh. Sự vận hành như vậy của luật tục vào đời sống xã hội thật đơn giản.

Nó khác với cơ chế điều chỉnh p của Nhà nước được kết hợp bởi nhiều yếu tố và quy trình pháp lý khá phức tạp. Nhưng chính từ cơ chế điều chỉnh đơn giản ấy của luật tục mà các thành viên trong cộng đồng gắn bó với nhau hơn và đó là cơ sở xã hội làm cho luật tục tồn tại lâu dài.

* Về ngôn ngữ diễn đạt: Trong văn học dân gian truyền thống của người Ê Đê, lời nói vần Duê là một hình thức ngôn từ đặc biệt và phổ biến trong văn chương truyền miệng Ê Đê như tục ngữ, truyện cổ, trường ca, thần thoại, dân ca. Lời nói vần là sự chắt lọc tinh túy từ những tri thức, kinh nghiệm dân gian. Trong giao tiếp, người ta vẫn thường xen vào những câu nói vần như để làm chuẩn mực đối chiếu xã hội. Trong luật tục, những câu nói vần được gọi là Duê Kđi. Nó giống như khẩu ngữ hàng ngày với cách nói ví von, so sánh, hình tượng nhưng cũng rất cụ thể, cách dùng ngoa ngữ để khẳng định điều muốn nói. Nhưng Duê Kđi có tính chất thiêng liêng hơn vì được coi như những câu nói của ông bà tổ tiên, của các thần linh đã để lại cho con cháu.

Ví dụ như để trừng phạt những kẻ có hành vi bịa đặt, vu cáo cho người khác về những điều không có thực, luật tục đã mô tả hành vi đó như sau:

Hắn bịa chuyện vu khống cả kẻ sang, người giàu.

Hắn nói, họ như một cây gạo đã rỗng ruột, như một cái cối đã thủng đáy trong khi chẳng có tí gì như vậy cả.

Có những chàng trai trong làng, những cô gái ngây thơ, những người Mnông, người Bih chất phác thật thà, đã bị hắn đổ cho là đã đi vào bụi vào bờ (lén lút) ăn thịt bò, thịt trâu (đã đánh cắp)…

Có thể thấy, ngôn ngữ trong luật tục hầu hết là thứ ngôn ngữ giàu hình ảnh cụ thể, sinh động. Những hình ảnh ấy vừa cô đọng, sâu sắc, vừa giản dị, dễ nhớ, dễ lưu truyền làm cho người nghe, người đọc có thể hình dung và nhận thức bằng trực giác mà không cần đến một sự giải thích nào khác. Với ngôn ngữ ấy, Luật tục đã phản ánh thế giới tự nhiên và đời sống của con người rất cụ thể, được các thành viên trong cộng đồng tiếp nhận và lưu giữ dễ dàng.

Mặc dù luật tục Ê Đê mới chỉ đề cập đến những quan hệ xã hội trong phạm vi hẹp của một cộng đồng người mà phương thức sản xuất chưa phát triển, nhưng nó đã khẳng định sự tồn tại của một cộng đồng người có tổ chức, có kỷ cương mà những khuôn mẫu ấy đã vượt lên trên những tập quán thông thường.

Nghiên cứu văn hóa pháp lý của luật tục nói chung và luật tục Ê Đê nói riêng phần nào giúp chúng ta tìm được cơ chế thích hợp cho việc áp dụng pháp luật thực định vào đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số, đảm bảo nguyên tắc pháp chế XHCN trong điều kiện nước ta hiện nay, khi các vùng dân cư vẫn còn sự khác biệt về kinh tế và văn hóa.

Chú thích:

1, 2, 3 Xem : Luật tục Ê Đê, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, 1996.

SOURCE: TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 2/2001

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét