Thứ Bảy, 27 tháng 6, 2009

ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG: NHIỀU ĐIỀU CHƯA RÕ

LS. NGUYỄN HỮU PHƯỚC - Công ty Luật Phước & Partners

Trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế toàn cầu như hiện nay, việc cắt giảm chi phí hoạt động nói chung và chi phí lao động nói riêng là một trong những việc cấp thiết phải làm của các doanh nghiệp để có thể tồn tại.

Việc cắt giảm chi phí lao động nói chung có nhiều cách, ví dụ như không ký lại hợp đồng lao động (HĐLĐ) sắp hết hạn, không tăng lương và trợ cấp, không thưởng thành tích, cắt giảm các khoản vui chơi, giải trí của người lao động (NLĐ), cắt giảm các khoản phúc lợi không cam kết trong HĐLĐ hoặc thỏa ước lao động tập thể. Tuy nhiên, những cắt giảm này thường không thể triển khai nhanh và nhiều được. Cái có thể đạt mục đích nhanh nhất vẫn là việc người sử dụng lao động (NSDLĐ) đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ.

Các quy định của luật

Bộ luật Lao động hiện hành cũng đã có dự liệu về trường hợp này. Cụ thể, điều 17 của bộ luật quy định NSDLĐ được quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ trong trường hợp “do thay đổi cơ cấu hoặc công nghệ” và NLĐ đã được đào tạo lại nghề để sử dụng cho công việc mới nhưng NSDLĐ không thể giải quyết được việc làm mới.

Cụm từ “do thay đổi cơ cấu hoặc công nghệ” được Chính phủ giải thích thêm tại điều 11 của Nghị định 39/2003 ngày 18-4-2003 là bao gồm một trong các trường hợp sau: (i) việc thay đổi một phần hoặc toàn bộ máy móc, thiết bị, quy trình công nghệ tiên tiến có năng suất lao động cao hơn; (ii) thay đổi sản phẩm hoặc cơ cấu sản phẩm dẫn đến việc sử dụng lao động ít hơn; hoặc (iii) thay đổi cơ cấu tổ chức, sáp nhập, giải thể “một số bộ phận” của đơn vị.

Khoản 2, điều 17 của Bộ luật Lao động cũng quy định là khi có nhiều NLĐ thôi việc do thay đổi cơ cấu hoặc công nghệ, doanh nghiệp phải công bố danh sách, trao đổi nhất trí với ban chấp hành công đoàn cơ sở và phải báo cho cơ quan quản lý nhà nước về lao động địa phương biết. Chỉ sau 30 ngày kể từ ngày báo cho cơ quan quản lý nhà nước về lao động địa phương biết, thì NSDLĐ mới quyết định cho NLĐ thôi việc.

Phần II, khoản 4 của Thông tư số 19 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ngày 12-9-1996 cũng quy định là chi phí phục vụ cho việc đào tạo được lấy từ quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm của doanh nghiệp.

Vướng mắc phát sinh trong thực tế

Tuy nhiên, khi áp dụng các điều khoản trên đây, thường có xảy ra một số vướng mắc gây khó khăn cho doanh nghiệp. Cụ thể như sau:

(i) Đào tạo lại: Bộ luật Lao động và các văn bản pháp quy của Chính phủ không quy định rõ là thời gian đào tạo lại, do doanh nghiệp tự làm hay phải nhờ một đơn vị dịch vụ huấn luyện chuyên nghiệp thực hiện? Nếu không có công việc phù hợp khác trong doanh nghiệp có cần phải qua thủ tục đào tạo lại không? Nếu không có những hướng dẫn rõ về những vấn đề này thì sẽ phát sinh nhiều vấn đề.

Nên chăng Nghị định 39/2003 phải được sửa đổi, bổ sung theo hướng giải thích cụ thể cụm từ “đào tạo lại” về các khía cạnh như thời gian đào tạo, nội dung đào tạo, công việc đào tạo, trình độ người đào tạo, tiêu chí xác định việc đào tạo hoàn tất để làm cơ sở cho việc xác định xem việc đào tạo lại có đạt được mục đích như nhà làm luật mong muốn không để tránh việc tranh chấp giữa NSDLĐ và NLĐ.

Chẳng hạn, NSDLĐ có thể lợi dụng bằng cách chỉ đào tạo lại cho NLĐ trong thời gian rất ngắn, chỉ 1-2 ngày cho có lệ, rồi quyết định là NLĐ không phù hợp cho công việc mới; hoặc đào tạo lại những công việc mới không phù hợp với khả năng của họ (ví dụ như nhân viên bảo vệ lại được cho đào tạo lại thành kế toán quản trị hay nhân viên hành chính được đào tạo lại thành chuyên viên đồ họa hay vi tính); hoặc không có tiêu chí để xác định là việc đào tạo lại có thành công hay không...

Về phía NLĐ, họ cũng có thể làm khó NSDLĐ qua việc luôn than phiền, kêu ca là không có đủ thời gian để tham gia các khóa đào tạo lại do doanh nghiệp tổ chức; hoặc không được các giảng viên chuyên nghiệp hướng dẫn bài vở một cách đầy đủ, chuyên nghiệp và tận tình cũng như không có được cơ hội tiếp cận các tài liệu, giáo trình chuyên nghiệp.

Về vấn đề này, nên chăng Nghị định 39/2003 phải được sửa đổi, bổ sung theo hướng giải thích cụ thể cụm từ “đào tạo lại” về các khía cạnh như thời gian đào tạo, nội dung đào tạo, công việc đào tạo, trình độ người đào tạo, tiêu chí xác định việc đào tạo hoàn tất để làm cơ sở cho việc xác định xem việc đào tạo lại có đạt được mục đích như nhà làm luật mong muốn không để tránh việc tranh chấp giữa NSDLĐ và NLĐ.

(ii) Thời gian báo trước: Khi NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ do thay đổi cơ cấu hoặc công nghệ theo điều 17 của Bộ luật Lao động, thì không thấy luật đề cập là có cần phải có thời gian báo trước hay không.

Trong một vài văn bản của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội trả lời thắc mắc của một số doanh nghiệp thì trong trường hợp này doanh nghiệp không phải báo trước cho NLĐ. Việc thay đổi cơ cấu hoặc công nghệ là việc NSDLĐ thường có dự liệu trước dù trong thực tế có thể thời gian dự liệu không dài.

Thêm vào đó, đây là công việc phục vụ cho quyền lợi và lợi ích của NSDLĐ chứ không phải của NLĐ. Do đó, việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ do thay đổi cơ cấu hoặc công nghệ nên có thời gian báo trước tương tự như các trường hợp được nêu ở khoản 2 và 3, điều 38 của Bộ luật Lao động để tạo điều kiện cho NLĐ có đủ thời gian tìm công việc mới, để ổn định cuộc sống, đặt biệt là khi mà trợ cấp mất việc làm không còn được áp dụng kể từ ngày 1-1-2009 cho đa số các trường hợp.

(iii) Yêu cầu về việc trao đổi nhất trí với ban chấp hành công đoàn cơ sở: Trong một số doanh nghiệp đã có thành lập công đoàn lâm thời hoặc công đoàn cơ sở thì việc trao đổi nhất trí với ban chấp hành công đoàn lâm thời hoặc công đoàn cơ sở là chuyện khá dễ dàng. Tuy nhiên, trong một số doanh nghiệp mà công đoàn chưa được thành lập thì sẽ phải giải quyết như thế nào?

Theo công văn hướng dẫn của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho một doanh nghiệp thì trong trường hợp doanh nghiệp chưa có tổ chức công đoàn cơ sở thì nếu muốn chấm dứt HĐLĐ với NLĐ theo điều 17 của Bộ luật Lao động, NSDLĐ vẫn phải thực hiện theo trình tự và thủ tục nêu trên, nhưng được miễn trừ việc trao đổi nhất trí với tổ chức công đoàn cơ sở .

Thiết nghĩ việc có sự tham gia của ban chấp hành công đoàn cơ sở nhằm mục đích chính là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho NLĐ trong trường hợp NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ.

Nếu theo hướng dẫn trên của bộ, thì các quyền, lợi ích hợp pháp của NLĐ không được bảo vệ và không khuyến khích các doanh nghiệp tích cực trong việc kêu gọi, khuyến khích NLĐ tham gia công đoàn. Vì thế, nên điều chỉnh khoản 2, điều 17 của Bộ luật Lao động theo hướng là trong trường hợp doanh nghiệp không có công đoàn thì NSDLĐ cần phải xin ý kiến nhất trí của công đoàn cấp trên tại địa phương nơi trụ sở của doanh nghiệp tọa lạc.

(iv) Cần làm rõ khái niệm về việc thay đổi cơ cấu tổ chức, sáp nhập, giải thể “một số bộ phận”. Điều 11 của Nghị định 39/2003 có quy định trong trường hợp thay đổi cơ cấu tổ chức, sáp nhập, giải thể “một số bộ phận” của đơn vị cũng được coi là một trong những trường hợp do thay đổi cơ cấu trong doanh nghiệp theo điều 17 của Bộ luật Lao động và NSDLĐ có thể áp dụng cho việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ.

Tuy nhiên, khái niệm “một số bộ phận” lại không được làm rõ ở Nghị định 39/2003 và các văn bản pháp quy về lao động khác và vì thế sẽ không có cơ sở pháp lý vững chắc để xác định là có một hay một số bộ phận nào đó trong sơ đồ tổ chức doanh nghiệp bị giải thể là do kết quả của việc áp dụng một cấu trúc tổ chức mới của doanh nghiệp hay không.

Như chúng ta đã biết, trong một số doanh nghiệp nhỏ có khoảng 10 nhân viên thôi thì một bộ phận có thể chỉ do một người duy nhất phụ trách mà thôi (ví dụ bộ phận kế toán, bộ phận pháp chế, hay bộ phận công nghệ thông tin). Trong khi đó, chúng ta có xu hướng cho rằng đã gọi là “bộ phận” thì thường phải có nhiều hơn một người, tối thiểu là hai người. Câu hỏi là có thể coi một người nhân viên trong các ví dụ nêu trên là một bộ phận của doanh nghiệp để áp dụng điều 11 của Nghị định 39/2003 hay không.

Các luật sư và luật gia nói chung có lý luận cho rằng cụm từ “bộ phận” nên được hiểu có thể là một người hoặc một nhóm người được giao một công việc chuyên môn đặc thù nào đó độc lập với các công việc chuyên môn của các nhân viên khác trong doanh nghiệp. Giải thể một số bộ phận là kết quả của việc doanh nghiệp không còn cần (các) công việc chuyên môn đó nữa.

Thiết nghĩ, điều 11 của Nghị định 39/2003 cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng này để giải thích rõ cụm từ “bộ phận” nhằm tránh các tranh chấp không đáng có.

SOURCE: THỜI BÁO KINH TẾ SÀI GÒN

Trích dẫn từ: http://www.thesaigontimes.vn/Home/doanhnghiep/phapluat/20486/

ĐỂ LÀM TỐT VAI TRÒ CHỦ ĐẠO CỦA KINH TẾ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

PGS.TSKT. NGUYỄN HUY OÁNH

Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Và cũng chính nó là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng, điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện để thúc đẩy các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.

Từ Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII (năm 1994) Đảng ta đã xác định thành phần kinh tế nhà nước với nội hàm rộng lớn hơn doanh nghiệp nhà nước trước đây và khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam. Từ đó đến nay, khái niệm thành phần kinh tế nhà nước được tiếp tục hoàn thiện dần, cơ bản gồm hai bộ phận: doanh nghiệp nhà nước và bộ phận kinh tế của Nhà nước nằm ngoài doanh nghiệp nhà nước. Khi bàn về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, chúng ta phải nói đến cả hai bộ phận của thành phần kinh tế này. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục khẳng định: "Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển"(1).

1 - Đối với các doanh nghiệp nhà nước:

Văn kiện Đại hội X của Đảng nhấn mạnh: "Đẩy mạnh và mở rộng diện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, kể cả các tổng công ty, nhằm tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động, để vốn nhà nước được sử dụng có hiệu quả và ngày càng tăng lên, đồng thời thu hút mạnh các nguồn lực trong, ngoài nước cho phát triển. Thực hiện nguyên tắc thị trường trong việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước"(2). Vấn đề đặt ra là, doanh nghiệp nhà nước nên có mặt ở khu vực nào và ở quy mô nào để vừa có hiệu quả kinh tế, vừa làm tốt vai trò là một bộ phận quan trọng của kinh tế nhà nước như Đảng ta đã xác định. Trên phương diện đó, có mấy điều cần lưu ý khi bàn về vấn đề doanh nghiệp nhà nước:

- Sự phức tạp trong việc minh bạch hóa hoạt động của doanh nghiệp nhà nước: Là những loại hình doanh nghiệp hoạt động dựa trên sở hữu nhà nước nên doanh nghiệp nhà nước cùng một lúc phải giải quyết nhiều mối quan hệ phức tạp: quan hệ giữa chủ thể sở hữu (ở đây là Nhà nước) với chủ thể sử dụng (ở đây là lãnh đạo doanh nghiệp) và người lao động, trên các mặt trách nhiệm cũng như lợi ích kinh tế, nhất là lợi ích kinh tế. Thực tiễn chỉ ra rằng, xử lý mối quan hệ này rất khó khăn, phức tạp và đây là vấn đề vẫn làm đau đầu các nhà hoạch định chiến lược.

- Hệ thống doanh nghiệp nhà nước ở nước ta được ra đời chủ yếu trong thời kỳ duy trì cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, là một hệ thống rộng khắp từ trung ương xuống địa phương, quản lý một lượng lao động rất lớn, một nguồn vốn lớn và được hưởng những điều kiện thuận lợi. Đến nay đã trải qua nhiều đợt cải cách, sắp xếp lại nhưng hiệu quả đạt được còn thấp, thậm chí nhiều doanh nghiệp nhà nước còn bị lỗ.

Theo ông Hồ Xuân Hùng (Phó Trưởng ban, Ban chỉ đạo Đổi mới và Phát triển doanh nghiệp nhà nước Trung ương), tính đến tháng 7-2006, có 2.300 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, nếu tính cả những doanh nghiệp nhà nước có cổ phần khống chế thì con số này có thêm 1.000 doanh nghiệp nữa. Việc sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước theo hướng vừa hiệu quả, vừa bảo đảm vai trò then chốt, nhưng không gây ra những hậu quả tiêu cực về mặt xã hội đòi hỏi chúng ta phải có quyết tâm cao, đồng thời có sự tính toán khoa học với một lộ trình hợp lý.

Từ khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt 104 đề án sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, đến nay vấn đề phân loại doanh nghiệp, xác định những lĩnh vực Nhà nước cần nắm giữ doanh nghiệp nhà nước 100% vốn, nắm cổ phần khống chế; giao, bán, khoán kinh doanh hoặc cho thuê coi như về cơ bản đã hoàn tất. Vấn đề còn lại là tiếp tục hoàn thành và xác định các bước cải cách tiếp theo để không ngừng nâng cao hiệu quả, nhất là năng lực cạnh tranh khi nước ta hội nhập sâu hơn vào kinh tế quốc tế.

Những giải pháp để doanh nghiệp nhà nước phát triển mạnh mẽ và hiệu quả:

Một là, tập trung hoàn thiện về cơ chế, chính sách: Hoàn thiện những quy định về trách nhiệm, quyền lợi của doanh nghiệp trong việc bảo toàn vốn và nộp thuế, đặc biệt là thuế thu nhập doanh nghiệp; chú ý cả trách nhiệm và quyền lợi cá nhân những người được giao quản lý doanh nghiệp. Quản lý tốt được khâu này sẽ giảm thiểu được những tiêu cực trong doanh nghiệp nhà nước. Ngoài ra, những quy định về chế độ hạch toán, kiểm toán cần được hoàn thiện để nâng cao hơn nữa mức độ minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.

Hai là, có thể tham khảo kinh nghiệm của các nước tư bản chủ nghĩa phát triển trong việc áp dụng hình thức ký hợp đồng giữa nhà nước với cán bộ được giao quản lý doanh nghiệp nhà nước, mà nội dung chính của hợp đồng là xác định trách nhiệm và quyền lợi giữa hai bên Nhà nước mà đại diện là Hội đồng quản trị và cá nhân giám đốc.

Ba là, phải quán triệt tư tưởng chỉ đạo sâu sắc của Đảng như tinh thần Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đề ra: "Đặt các doanh nghiệp có vốn nhà nước vào môi trường hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp khác để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh. Thu hẹp tối đa diện Nhà nước độc quyền kinh doanh, xóa bỏ đặc quyền kinh doanh của doanh nghiệp"(3). Có như vậy, đất nước mới sớm hình thành một môi trường kinh doanh lành mạnh, không phân biệt đối xử, kẻ mạnh phải xứng đáng được tôn vinh trong cạnh tranh thị trường.

Bốn là, hoàn chỉnh cơ chế tự chủ của doanh nghiệp nhà nước theo hướng tăng tự chủ đi liền với tăng trách nhiệm và quyền lợi, tách doanh nghiệp ra khỏi sự ràng buộc của cơ chế chủ quản.

Năm là, đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Với những doanh nghiệp mũi nhọn nên chuyển sang mô hình công ty mẹ - công ty con, trong đó công ty mẹ do Nhà nước nắm 100% vốn hoặc Nhà nước nắm cổ phần chi phối.

2 - Đối với những bộ phận kinh tế của Nhà nước nằm ngoài doanh nghiệp nhà nước:

Khi nói kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo mà bỏ quên hoặc coi nhẹ bộ phận kinh tế của Nhà nước nằm ngoài doanh nghiệp nhà nước là thiếu sót lớn. Cần khẳng định một điều: huy động được tối đa và sử dụng hợp lý, có hiệu quả nguồn lực từ bộ phận này sẽ góp phần rất quan trọng để kinh tế nhà nước nắm được vai trò chủ đạo. Bởi vì, xử lý việc thu và chi từ nguồn lực này đúng hướng sẽ có tác động mạnh mẽ vào thị trường, vào định hướng sản xuất kinh doanh theo yêu cầu mà chúng ta mong muốn.

Trong tài chính nhà nước, ngân sách nhà nước là bộ phận quan trọng nhất, là khâu chủ đạo để thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước do Hiến pháp quy định và Luật Ngân sách nhà nước điều tiết. Ngân sách nhà nước còn là công cụ quan trọng của Nhà nước để điều tiết vĩ mô nền kinh tế và bảo đảm an ninh quốc gia. Do đó, nâng cao hiệu lực quản lý ngân sách nhà nước thể hiện ở việc mở rộng, tăng cường nguồn thu vào ngân sách và thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Trong rất nhiều nguồn thu vào ngân sách nhà nước, thu từ thuế và phí có vị trí quan trọng nhất. Những năm qua, chỉ riêng giá trị thu được từ thuế và phí chiếm khoảng 20% GDP, giai đoạn suy giảm là 1998 - 2000, song lại có xu hướng tăng dần trong GDP những năm gần đây (xem bảng).

Có thể thấy, tăng thu ngân sách nhà nước phụ thuộc vào các điều sau đây:

- Phải có nhiều giải pháp nuôi dưỡng nguồn thu, làm cho giá trị thu được vào ngân sách từ các nguồn ngày càng tăng về giá trị tuyệt đối, tuy tỷ trọng có giảm đi do sự phát triển của các ngành nghề, lĩnh vực mới hay cơ cấu nguồn thu thay đổi...

- Phải tổ chức bộ máy và quy trình thu ngân sách hoàn thiện để vừa có thể tăng thu, đấu tranh có hiệu quả với các hiện tượng gian lận thương mại (làm hàng giả, trốn thuế, lậu thuế).

- Xác định đúng tỷ lệ cần thu để vừa thu được nhiều cho ngân sách, vừa động viên khuyến khích được cơ sở mở rộng, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh.

Toàn bộ những biện pháp trên đây được thực hiện trước hết ở tầm vĩ mô mà cơ quan cao nhất là Quốc hội và Chính phủ.

Để nâng cao hiệu quả chi ngân sách, nên quan tâm đến một số giải pháp cơ bản sau đây:

Một là, phải tăng cường vai trò của Quốc hội trên các mặt:

- Xác định phương hướng chi tiêu ngân sách nhà nước hằng năm; tuân thủ Luật Ngân sách nhà nước và giám sát việc cụ thể hóa Luật này thành hệ thống chính sách phản ánh đúng tinh thần của Luật.

- Kiểm tra, kiểm soát mọi hoạt động chi tiêu ngân sách nhà nước của chính quyền. Để tư vấn cho Quốc hội một cách đầy đủ và khoa học, ngoài Ủy ban Ngân sách của Quốc hội (gồm những cán bộ có chuyên môn thành thạo) phải có một bộ phận kiểm tra, thanh tra việc tuân thủ các quy định của Luật về chi tiêu ngân sách của chính quyền. Bộ phận này bao gồm một số cán bộ có chuyên môn sâu, có phẩm chất đạo đức và bản lĩnh chính trị vững vàng, hoạt động độc lập với cơ cấu chính quyền để bảo đảm tính khách quan. Trong mấy năm vừa qua, vai trò của Quốc hội về vấn đề này đã có bước tiến bộ, nhưng chưa được như mong muốn, nhất là khâu kiểm tra, giám sát.

Hai là, phải hình thành một loạt chính sách về tài chính nói chung, về chi tiêu ngân sách nhà nước nói riêng. Chiến lược phát triển kinh tế phải được thể hiện rõ trong chính sách tài khóa trên các góc độ ngắn hạn, trung và dài hạn. Trong chính sách tài khóa đó phải bằng các định chế khoa học để loại bỏ nạn "xin - cho", cơ chế bao cấp qua ngân sách nhà nước (sẽ phải xây dựng một cơ chế riêng khi cần hỗ trợ cho vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo để vừa đáp ứng yêu cầu hỗ trợ, lại tránh được hiện tượng tiêu cực).

Ba là, phải sử dụng việc chi tiêu ngân sách nhà nước như một công cụ điều tiết vĩ mô nhằm đối phó kịp thời, hiệu quả đối với những biến động xấu của nền kinh tế. Để làm việc này, Chính phủ phải có bộ phận theo dõi sát sao mọi biến động của nền kinh tế trong nước, có cơ chế kịp thời sử dụng ngân sách dự phòng, hoặc vay nợ nước ngoài để đầu tư phát triển, hoặc để thu gom hàng hóa dôi dư trên thị trường, tạo nên sự cân đối giữa tổng cung và tổng cầu, ngăn chặn kịp thời những "cơn sốt kinh tế", xác lập sự ổn định một cách tương đối nền kinh tế trong nước.

Bốn là, quản lý chi đầu tư phát triển một cách hiệu quả nhất với một loạt giải pháp như:

- Dành một tỷ lệ thỏa đáng cho đầu tư phát triển. Năm 2005 tỷ lệ này là 31,9%. Trong thời gian tới, ít nhất cũng phải duy trì tỷ trọng này.

Nước ta kết cấu hạ tầng còn lạc hậu, trình độ khoa học - kỹ thuật còn rất yếu kém, vì vậy phải dành thỏa đáng vốn đầu tư phát triển cho khu vực xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển khoa học - công nghệ. Trong những năm vừa qua, tỷ trọng dành cho kết cấu hạ tầng chiếm khoảng 90%, sắp tới có thể và cần phải tiếp tục duy trì tỷ trọng này.

Bên cạnh đó, phải tăng cường các biện pháp nâng cao hiệu quả trong chi đầu tư phát triển như:

- Có hệ thống thẩm định dự án một cách khoa học. Hạn chế tối đa việc đầu tư phân tán dẫn đến vốn xây dựng cơ bản bị xé lẻ, các công trình xây dựng đều dở dang.

- Xây dựng quy chế đấu thầu hợp lý, khoa học, khắc phục những tiêu cực do lợi dụng sơ hở của quy chế đấu thầu cũ giữa bên A và bên B.

- Ưu tiên đầu tư xây dựng những cơ sở sản xuất đạt yêu cầu cao về kỹ thuật và có hiệu quả, tránh sự dàn trải và nạn "xin - cho".

- Nâng cao năng lực giám sát của hệ thống kho bạc nhà nước khi thanh quyết toán các công trình...

- Dành một tỷ lệ đầu tư phát triển thỏa đáng cho khu vực nông nghiệp, nông thôn, vì đây là khu vực đòi hỏi tập trung đầu tư nhiều hơn để khai thác các tiềm năng sẵn có, đồng thời bảo đảm ổn định nền kinh tế - xã hội.

Ngoài ra, cần phải xác định tốt mối quan hệ giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính với các bộ chuyên ngành để xử lý các dự án đầu tư phát triển hợp lý, giúp cho Chính phủ có thể tập trung vào những dự án mũi nhọn, tránh phân tán, đồng thời vẫn đáp ứng được những nhu cầu phát triển chung của nền kinh tế. Có thể hình thành một tổ chức tương đối ổn định để làm việc này.

Năm là, phải có những bước cải cách thật căn bản về chế độ tiền lương và dành một tỷ lệ hợp lý cho chi thường xuyên. Trong giai đoạn hiện nay, không nên thực hiện chính sách thắt chặt tài chính trong chi thường xuyên, vì khi chúng ta chưa khống chế được các khoản chi lương và có tính chất lương (khoản này có chiều hướng ngày càng gia tăng), thì việc thắt chặt tài chính trong chi thường xuyên sẽ dẫn đến các tác hại sau đây:

- Giảm khả năng bảo dưỡng cơ sở vật chất kỹ thuật đang sử dụng do thiếu tiền, dẫn đến hư hỏng lớn các cơ sở (kinh phí bảo dưỡng tốn ít hơn nhiều so với phải xây dựng hoặc mua sắm mới nếu bị hư hỏng). Theo Ngân hàng thế giới, chi phí cho cải tạo đường bộ cao gấp vài lần so với việc được bảo trì và vận hành đúng đắn;

- Giảm bớt khả năng chi tiêu cho các ngành như y tế, giáo dục... khiến cho hiệu quả phục vụ dân sinh của các ngành này không có hiệu quả dù đã có cơ sở khang trang (do thiếu cán bộ, nhân viên vì không có tiền chi trả lương tương xứng cho họ);

- Giảm khả năng hoạt động của bộ máy nhà nước do thiếu các điều kiện cần thiết như kinh phí đi cơ sở, kinh phí mua sắm các vật liệu đồ dùng cần thiết cho cán bộ hoạt động...;

- Cần nhanh chóng xử lý mối quan hệ giữa tăng lương cho cán bộ, công nhân viên với việc giảm bớt biên chế trong bộ máy. Giải quyết tốt quan hệ này sẽ làm cho những cán bộ được sử dụng có thu nhập hợp lý, tái sản xuất được sức lao động, họ sẽ phấn khởi hăng hái sản xuất, nâng cao năng lực sáng tạo, hạn chế được những tiêu cực do mức thu nhập quá thấp gây ra, mà lại không làm cho tổng quỹ lương tăng quá cao so với sự phát triển của nền kinh tế. Như vậy, việc cải cách tiền lương đi đôi với tinh giản biên chế (có kèm với một chiến dịch đào tạo lại nguồn nhân lực do tinh giản biên chế gây ra) là rất cần thiết;

- Kết hợp cải cách mạnh mẽ chính sách tiền lương với việc xử lý thật công khai, minh bạch các khoản thu nhập ngoài lương.

Sáu là, phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên. Xử lý quan hệ giữa hai khoản chi này một cách đúng đắn sẽ góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, văn hóa và bảo đảm mọi hoạt động bình thường trong xã hội. Trên thực tế, nhiều quốc gia cũng đã gặp khó khăn trong vấn đề này. Kinh nghiệm của một số nước đang phát triển (Gha-na và Nam Phi) và các nước phát triển (Ốt-xtrây-li-a và Niu Di-lân) là xây dựng một quy trình lập kế hoạch ngân sách "cuốn chiếu" cho nhiều năm, nhờ vậy sẽ thống nhất chi đầu tư và chi thường xuyên vào một ngân sách duy nhất. Với nước ta, nhóm công tác chung giữa Chính phủ Việt Nam và các nhà tài trợ đã gợi ý một số giải pháp tương tự:

- Có một ủy ban liên bộ Bộ Tài chính - Bộ Kế hoạch và Đầu tư để xem xét các dự án lớn, trong đó chi đầu tư và chi thường xuyên được đánh giá cùng một lúc;

- Xây dựng một khuôn khổ ngân sách trung hạn, cả ở cấp tổng hợp và cấp ngành, nhờ đó mới có thể phối hợp giữa hai khoản chi lớn này của ngân sách;

- Đẩy mạnh sự phối hợp giữa sở tài chính với sở kế hoạch và đầu tư ở cấp tỉnh, thành trong việc giải quyết mối quan hệ này (hiện đang là điểm yếu khiến cho quan hệ giữa chi đầu tư và chi thường xuyên ở cấp tỉnh chưa tốt);

- Chú ý nâng cao hiệu quả quản lý các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách nhà nước.

Ngoài ngân sách nhà nước, tài chính nhà nước còn bao gồm các quỹ khác như: nhóm các quỹ dự trữ, dự phòng; nhóm các quỹ chuyên dùng của các doanh nghiệp nhà nước; nhóm các quỹ có tính chất hỗ trợ các hoạt động kinh tế - xã hội như quỹ hỗ trợ phát triển, quỹ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị, quỹ đầu tư phát triển nông thôn...; nhóm các quỹ phục vụ cho các chương trình mục tiêu quốc gia như quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm, quỹ phủ xanh đất trống, đồi núi trọc...

Đặc điểm của các loại quỹ này là có tính chất sử dụng riêng biệt, chịu sự điều chỉnh, kiểm tra của các tổ chức chính quyền các cấp ít hơn so với ngân sách nhà nước. Mục đích chi tiêu của các quỹ này thường nhằm khắc phục các biến cố xảy ra bất thường (mang tính chất xã hội, hoặc tính chất kinh tế), nhưng mục đích tạo ra hiệu quả lâu dài. Do vậy, dễ có quan niệm là nơi nào, khu vực nào được sử dụng quỹ này coi như được Nhà nước hỗ trợ, được của "trời cho". Các cơ quan thay mặt nhà nước quản lý các quỹ này xem như mình có quyền "ban phát bổng lộc" cho địa phương, cơ sở. Tệ tham nhũng, gây thất thoát vốn lớn, nạn "xin - cho"... thường xuất hiện trong những tình huống như vậy. Vì thế, nếu không quản lý chặt chẽ, việc chi tiêu các loại quỹ của Nhà nước sẽ rất dễ bị sử dụng sai, kém hiệu quả do thất thoát, tham nhũng.

Để nâng cao hiệu lực quản lý tài chính nhà nước đối với việc sử dụng các loại quỹ tài chính ngoài ngân sách nhà nước, chúng tôi xin đề xuất một số quan điểm và giải pháp chung như sau:

- Việc chi tiêu các quỹ tài chính nhà nước cần đưa vào quỹ đạo như chi tiêu ngân sách nhà nước để tiện kiểm tra, kiểm soát. Kinh nghiệm cho thấy, cần tránh việc chi tiêu theo kiểu "phát động phong trào", vì như vậy rất dễ bị lợi dụng: chất lượng sản phẩm xấu, chi phí cao, thực chất là một phần tiền của Nhà nước bị thất thoát... (ví dụ: việc sử dụng tiền công trái xây các bệnh xá ở miền núi, chất lượng bệnh xá kém, xã không chịu nghiệm thu).

- Cố gắng vận dụng cơ chế thị trường trong chi tiêu các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách nhà nước. Các đơn vị chủ đầu tư khi chi tiêu phải tổ chức đấu thầu để tìm chọn bên B phù hợp, đạt chất lượng. Với các đơn vị quản lý dự trữ quốc gia, khi thay đổi sản phẩm theo quy định cũng phải đưa sản phẩm cần thay đổi ra thị trường theo phương thức đấu thầu một cách khoa học. Có cơ chế khuyến khích các đơn vị này vừa bảo đảm chức năng dự trữ nhà nước, vừa có thể sinh lời từ hoạt động theo chức năng của mình. Những trường hợp không thể thực hiện đấu thầu, cần quản lý theo phương thức định mức có cơ sở tính toán khoa học, chặt chẽ trong việc giao vốn, kiểm tra, giám sát và nghiệm thu.

- Việc quản lý vốn đầu tư phát triển (mà cốt lõi là vốn xây dựng cơ bản) cùng với quản lý các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách nhà nước hết sức phức tạp. Tình trạng thất thoát lớn vốn xây dựng cơ bản cũng như tính kém hiệu quả khi sử dụng các quỹ ngoài ngân sách nhà nước những năm gần đây là những tín hiệu báo động, cần phải sớm ngăn chặn. Vì vậy, thay đổi các quy định, cơ chế, tổ chức, tăng cường kiểm tra, kiểm soát... là những yếu tố quan trọng có tính chất quyết định để kinh tế nhà nước làm tròn vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân như Đảng ta đã đề ra.


(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr 83 (2) Văn kiện đã dẫn, tr 232 (3) Văn kiện đã dẫn, tr 233 - 234

SOURCE: TẠP CHÍ CỘNG SẢN SỐ 116 NĂM 2006

Thứ Tư, 24 tháng 6, 2009

TÍNH CÔNG KHAI CỦA PHIÊN TÒA GIÁM ĐỐC THẨM DÂN SỰ

THS. MAI NGỌC DƯƠNG – Văn phòng Chính phủ

Nguyên tắc toà án xét xử công khai được quy định tại Điều 131 của Hiến pháp năm 1992 và được cụ thể hoá trong Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2002. Điều 7 của Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2002 quy định: “Toà án xét xử công khai, trừ trường hợp cần xét xử kín để giữ gìn bí mật Nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc hoặc để giữ bí mật của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ”.

Nguyên tắc này bảo đảm cho nhân dân giám sát được hoạt động xét xử của toà án, đồng thời tạo điều kiện cho toà án thực hiện việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử . Tuy nhiên hiện nay, trong phiên toà giám đốc thẩm dân sự, nguyên tắc xét xử công khai chưa hoàn toàn được áp dụng, sự tham gia của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người bào chữa còn hạn chế.

1. Thủ tục của phiên toà giám đốc thẩm không như một phiên toà

Phiên toà giám đốc thẩm dân sự là phiên toà do Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh, Toà dân sự (hoặc Toà kinh tế, Toà lao động) Toà án nhân dân tối cao và Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao tiến hành để xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án.

Theo quy định tại Điều 295 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (BLTTDS), thì phiên toà giám đốc thẩm diễn ra theo thủ tục sau:

- Sau khi chủ tọa khai mạc phiên toà, một thành viên của Hội đồng giám đốc thẩm trình bày tóm tắt nội dung vụ án, quá trình xét xử vụ án, quyết định của bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị và đề nghị của người kháng nghị.

- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến của Viện về quyết định kháng nghị.

- Trong trường hợp có người tham gia tố tụng hoặc người khác được Toà án triệu tập tham gia phiên toà giám đốc thẩm thì họ được trình bày ý kiến của mình về quyết định kháng nghị.

- Các thành viên của Hội đồng giám đốc thẩm thảo luận và phát biểu ý kiến của mình về việc giải quyết vụ án.

- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án.

- Hội đồng giám đốc thẩm biểu quyết về việc giải quyết vụ án.

Quyết định giám đốc thẩm của Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao phải được quá nửa tổng số thành viên của Uỷ ban thẩm phán hoặc Hội đồng thẩm phán biểu quyết tán thành. Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao biểu quyết theo trình tự tán thành, không tán thành với kháng nghị và các ý kiến khác; nếu không có trường hợp nào được quá nửa tổng số thành viên của Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao biểu quyết tán thành thì phải hoãn phiên toà. Trong thời hạn ba mươi ngày kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên toà, Uỷ ban thẩm phán, Hội đồng thẩm phán phải tiến hành xét xử lại với sự tham gia của toàn thể các thành viên.

Như vậy, phiên toà giám đốc thẩm được tiến hành với hình thức như một cuộc họp. Nhiều khi khó phân biệt phiên toà giám đốc thẩm với một cuộc họp bình thường. Nếu người tham gia tố tụng đã được Toà án triệu tập nhưng vắng mặt, phiên toà vẫn được tiến hành. Hầu hết các phiên toà giám đốc thẩm không có mặt những người tham gia tố tụng như: nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người bào chữa, người làm chứng. Sắp xếp trong phòng xử án không theo quy định bắt buộc như phiên toà sơ thẩm, phúc thẩm. Đại diện Viện kiểm sát và thư ký Toà án ngồi chung với Hội đồng xét xử. Điều này làm mất tính trang nghiêm của hoạt động xét xử nhân danh Nhà nước. Hơn nữa, với thủ tục một phiên toà như vậy, nguyên tắc xét xử công khai dường như chưa được bảo đảm bởi có quá ít người được biết phiên toà đã diễn ra như thế nào.

2. Sự tham gia của nguyên đơn, bị đơn dân sự trong giám đốc thẩm còn hạn chế

Trong thủ tục sơ thẩm, sự có mặt của nguyên đơn dân sự là bắt buộc. Điều 199 của BLTTDS quy định nguyên đơn phải có mặt tại phiên toà theo giấy triệu tập của Toà án, nếu vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên toà. Nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện và Toà án ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án. Đối với bị đơn, việc có mặt của họ tại phiên toà cũng được coi trọng. Bị đơn phải có mặt tại phiên toà theo giấy triệu tập của Toà án; nếu vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên toà. Bị đơn được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, Toà án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ (Điều 200 của BLTTDS).

Trong thủ tục phúc thẩm, sự tham gia của nguyên đơn, bị đơn cũng là nguyên tắc được đề cao nhưng mức độ đã giảm so với thủ tục sơ thẩm. Theo quy định tại Điều 264 của BLTTDS, thì người kháng cáo, đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đến việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải được triệu tập tham gia phiên toà. Toà án có thể triệu tập những người tham gia tố tụng khác tham gia phiên toà nếu xét thấy cần thiết cho việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị.

Trong thủ tục giám đốc thẩm, sự tham gia của nguyên đơn, bị đơn dân sự rất hạn chế. Thông thường, họ chỉ gửi đơn khiếu nại, tài liệu bổ sung qua đường bưu điện cho Toà án. Trong trường hợp thật đặc biệt thì họ mới được đại diện Toà án, Viện kiểm sát gặp gỡ để trình bày trực tiếp. Tại phiên toà giám đốc thẩm, sự có mặt của nguyên đơn, bị đơn dân sự không mang tính bắt buộc. Tại Khoản 2, Điều 292 của BLTTDS có quy định: khi xét thấy cần thiết, Toà án triệu tập những người tham gia tố tụng và những người khác có liên quan đến việc kháng nghị tham gia phiên toà giám đốc thẩm. Nhưng trong thực tiễn xét xử giám đốc thẩm dân sự, sự có mặt của nguyên đơn, bị đơn dân sự tại phiên toà giám đốc thẩm là rất hãn hữu. Có ý kiến cho rằng, việc pháp luật tố tụng không đề cao vai trò của nguyên đơn, bị đơn dân sự do đặc thù của giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật chứ không phải xét xử vụ án. Mặt khác, các bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật đã được xét xử qua ít nhất là một lần, nhiều là 2 - 3 lần, cho nên về mặt chứng cứ, tài liệu đã có điều kiện để tập hợp, phân tích đầy đủ. Tuy nhiên, theo chúng tôi, việc nguyên đơn, bị đơn dân sự không có mặt tại phiên toà giám đốc thẩm cũng có thể là một hạn chế của pháp luật tố tụng dân sự nước ta vì giám đốc thẩm xét lại bản án, quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án như: kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án; có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật, vì vậy, tuy các chứng cứ, tài liệu chứng minh về mặt nguyên tắc đã được tập hợp, phân tích đầy đủ, nhưng trong thực tế có nhiều vụ hồ sơ vụ án rất sơ sài, hoặc bị làm sai lệch, nếu các đương sự không được trình bày; Hội đồng giám đốc thẩm chỉ dựa vào hồ sơ vụ án để phán quyết thì vẫn có thể bị mắc sai lầm. Nếu đương sự vắng mặt thì tính trách nhiệm của thành viên Hội đồng giám đốc thẩm có thể không cao do “sức ép” của các bên không cao như khi họ có mặt, tính tranh luận của phiên toà cũng bị giảm đi. Hơn nữa, có lẽ là không hợp lý nếu đương sự không được tham gia vào quá trình Toà án xem xét lại bản án đối với vụ việc của chính mình - nghĩa là phiên toà giám đốc thẩm diễn ra không công khai đối với ngay cả đương sự - chứ chưa nói gì đến người dân nói chung.

3. Sự tham gia của người bào chữa trong giám đốc thẩm dân sự còn hạn chế

Trong thủ tục giám đốc thẩm dân sự, quyền và nghĩa vụ của người bào chữa nói chung không được xác lập, đề cao như ở giai đoạn sơ thẩm, phúc thẩm. Hoạt động của luật sư ở giai đoạn giám đốc thẩm không được coi trọng. Trong khi đó, nhiều trường hợp sau khi bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì đương sự mới mời luật sư bào chữa nên hồ sơ vụ án luật sư cũng không nắm chắc, việc tiếp cận hồ sơ vụ án trong giai đoạn giám đốc thẩm thường khá khó khăn và nhiều khi không thể thực hiện được. Việc tiếp xúc, đối thoại giữa luật sư với các bên đương sự đối lập, với người tiến hành tố tụng hầu như ít khi được thực hiện. BLTTDS không có điều khoản nào quy định trực tiếp quyền tham gia phiên toà giám đốc thẩm của luật sư. Vai trò của luật sư trong giám đốc thẩm còn mờ nhạt và mang tính gián tiếp. Luật sư thuộc nhóm “những người tham gia tố tụng” - nhóm những người mà khi xét thấy cần thiết thì toà án mới triệu tập - theo Khoản 2, Điều 292 của BLTTDS. Trong trường hợp có người tham gia tố tụng hoặc người khác được toà án triệu tập tham gia phiên toà giám đốc thẩm thì họ được trình bày ý kiến của mình về quyết định kháng nghị (Khoản 2, Điều 295). Việc hạn chế quyền tham gia phiên toà giám đốc thẩm dân sự của luật sư vô tình đã vi phạm nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự được quy định tại Điều 9 của BLTTDS. Khi luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự muốn tham gia phiên toà cũng không được, thì họ rất khó có thể bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trước các thẩm phán toà giám đốc thẩm.

4. Đề xuất cho hình thức phiên toà giám đốc thẩm

Như trên đã phân tích, việc phiên toà giám đốc thẩm mở không công khai có khả năng ảnh hưởng đến chất lượng của hoạt động xét xử giám đốc thẩm cũng như việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Vì vậy, theo chúng tôi, cần phải cải tiến phiên toà giám đốc thẩm theo hướng mở công khai với sự tham gia của các bên đương sự, người bào chữa nhằm thúc đẩy tranh tụng, tăng cường sự giám sát của nhân dân, phản biện của xã hội với mục tiêu làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án để các quyết định giám đốc thẩm thật sự chính xác, làm chuẩn mực cho việc giải quyết các vụ việc của hệ thống toà án. Thực tiễn pháp luật các nước như Cộng hoà Pháp, Hoa Kỳ... cũng cho thấy, khi phiên toà giám đốc thẩm được mở công khai, tính chất tranh tụng rất cao.

Từ phân tích trên, chúng tôi đề nghị bổ sung vào BLTTDS quy định về hình thức của phiên toà giám đốc thẩm như sau:

“Phiên toà giám đốc thẩm được mở công khai với sự tham gia của các bên đương sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người bào chữa”.

SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐIỆN TỬ

Trích dẫn từ: http://www.nclp.org.vn/thuc_tien_phap_luat/tinh-cong-khai-cua-phien-toa-giam-111oc-tham-dan-su

THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

GS.TS. HỒ VĂN VĨNH - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

I. Một số khái niệm về thương mại, dịch vụ

Trong khuôn khổ của GATT/WTO, tại vòng đàm phán Uruguay diễn ra từ năm 1986 đến năm 1994, các nước thành viên của GATT đã thông qua Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ (General Agreement on Trade in Services, viết tắt là GATS). Hiệp định được thiết lập nhằm mở rộng phạm vi điều chỉnh của hệ thống thương mại đa phương sang lĩnh vực dịch vụ chứ không điều chỉnh một mình lĩnh vực thương mại hàng hóa như trước đó. Đối với nước ta, thương mại dịch vụ là một thuật ngữ còn khá mới mẻ. Trong quan niệm hiện đại, cơ cấu kinh tế quốc dân được chia ra ba khu vực chính, đó là nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Theo Hệ thống kế toán quốc gia (SNA) thì nền kinh tế nước ta có 20 ngành cấp 1, trong đó nông nghiệp có 2 ngành (nông nghiệp và thủy sản), công nghiệp có 4 ngành (công nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến, sản xuất và cung cấp điện và nước và ngành xây dựng), còn dịch vụ có tới 14 ngành, có những ngành khá quen thuộc như thương mại, du lịch, vận tải, ngân hàng, thông tin liên lạc…, nhưng cũng có những ngành mới xếp vào lĩnh vực dịch vụ như giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao, hoặc như hoạt động của các đoàn thể xã hội… Dịch vụ là một khái niệm rất rộng, từ việc đáp ứng nhu cầu cá nhân đến việc phục vụ cho một ngành sản xuất, là một ngành kinh tế độc lập, hiện nay đang chiếm một tỷ trọng lớn trong nền kinh tế quốc dân và không ngừng được tăng cao.

Như vậy, có thể hiểu dịch vụ là toàn bộ các hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu nào đó của con người mà sản phẩm của nó tồn tại dưới hình thái phi vật thể.

Việc coi các ngành sự nghiệp như giáo dục, y tế, văn hóa…thuộc khu vực dịch vụ và được hạch toán trong hệ thống kinh tế quốc dân có thể đuợc lý giải dưới bốn góc độ: Thứ nhất, trong nền kinh tế thị trường, mọi sản phẩm đều là hàng hóa, mọi hoạt động đều là kinh doanh, mà kinh doanh là bỏ vốn ra để thu được lợi ích nhất định. Các ngành giáo dục-đào tạo, y tế, văn hóa…muốn hoạt động được cần đầu tư vốn và kết quả mang lại là sự phát triển toàn diện của con người, lợi ích đó còn giá trị hơn nhiều so với lợi nhuận mà một nhà kinh doanh hàng hóa vật thể đem lại. Người làm giáo dục, y tế, văn hóa cũng phải biết tính toán lỗ lãi, thiệt hơn. Thứ hai, trong nền kinh tế thị trường, tư nhân được quyền hoạt động giáo dục, khám chữa bệnh, lập các đoàn nghệ thuật, đoàn làm phim thì mục đích không phải chủ yếu là phục vụ không công cho xã hội mà mục đích là thu lợi, trực tiếp là lợi nhuận, tức là kinh doanh, tất nhiên nếu không đạt được mục tiêu xã hội thì cũng không thể kinh doanh được. Thứ ba, trong các ngành sự nghiệp như giáo dục, y tế, văn hóa đều có các doanh nghiệp, mà đã là doanh nghiệp tất yếu phải kinh doanh, như Công ty thiết bị trường học, Công ty dược, Nhà xuất bản… là các doanh nghiệp trực tiếp kinh doanh; còn các trường học, bệnh viện, đoàn nghệ thuật, câu lạc bộ bóng đá cũng có thể coi là doanh nghiệp. Thứ tư, những người được phục vụ nói chung đều phải trả tiền, phải tính toán thiệt hơn để thụ hưởng sự phục vụ có hiệu quả nhất.

Thương mại là một ngành kinh tế độc lập mà hoạt động của nó là mua, bán hàng hóa và dịch vụ. Luật thương mại quốc tế lại coi hoạt động đầu tư, tín dụng và chuyển giao công nghệ cũng là hoạt động thương mại. Trong ngành thương mại có ba lĩnh vực chính, đó là thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ và thương mại đầu tư, trong đó thương mại dịch vụ là hoạt động mua bán các loại dịch vụ. Trong hoạt động thương mại lại có các loại hoạt động hỗ trợ như xúc tiến thương mại, dịch vụ thương mại.Dịch vụ thương mại là các dịch vụ phục vụ cho việc mua bán hàng hóa và dịch vụ, như maketing chẳng hạn.

II. Nội dung của thương mại dịch vụ

a- Ban Thư ký WTO phân thương mại dịch vụ thành 12 khu vực bao gồm:

  1. Dịch vụ kinh doanh,
  2. Dịch vụ thông tin,
  3. Dịch vụ xây dựng và kỹ thuật,
  4. Dịch vụ kinh tiêu,
  5. Dịch vụ đào tạo,
  6. Dịch vụ môi trường,
  7. Dịch vụ tài chính,
  8. Dịch vụ liên quan đến sức khỏe và xã hội,
  9. Dịch vụ du lịch và các hoạt động có liên quan,
  10. Dịch vụ giải trí, văn hóa, thể thao,
  11. Dịch vụ vận tải,
  12. Các dịch vụ khác.

Từ 12 khu vực trên đây lại chia thành 155 tiểu khu vực. Theo GATS thương mại dịch vụ bao gồm các dịch vụ ở bất kỳ khu vực nào trừ dịch vụ do yêu cầu của chính phủ, là những dịch vụ không dựa trên kinh doanh hoặc cạnh tranh.

Thương mại dịch vụ là một bộ phận hợp thành của thương mại quốc tế, nó liên quan đến hoạt động thương mại vượt qua biên giới quốc gia, theo các phương thức chủ yếu sau đây:

-Phương thức1: Thương mại dịch vụ giữa các nước, tức là mua bán dịch vụ qua biên giới giữa các nước, có thể bằng viễn thông hoặc chuyển dịch vụ bằng hiện vật như bản vẽ, băng đĩa…

-Phương thức 2: Tiêu dùng dịch vụ ở nước ngoài, tức là khách hàng đi sang nước khác để tiêu dùng dịch vụ như đi du lịch, học tập; sửa chữa tàu biển, máy bay ở nước ngoài…

-Phương thức 3: Hiện diện thương mại, tức là đầu tư trực tiếp để thành lập một chi nhánh, công ty con hay đại lý để cung cấp dịch vụ như cung cấp thông tin, tư vấn pháp luật, ngân hàng cho nước sở tại…

-Phương thức 4: Hiện diện của thể nhân, tức là sự di chuyển tạm thời của cá nhân sang nước khác để cung cấp các dịch vụ như tư vấn, xây dựng, làm nội trợ, chăm sóc sức khỏe…

Trong bốn phương thức trên đây thì phương thức 3 - Hiện diện thương mại có vị trí quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn trong thương mại dịch vụ, đây là hình thức hoạt động thông qua liên doanh, chi nhánh hoặc công ty 100% vốn nước ngoài (FDI) để cung cấp dịch vụ trong nước (ngoại trừ dịch vụ du lịch và vận chuyển), thứ đến là phương thức 1 - Thương mại dịch vụ giữa các nước. Phương thức 2 - Tiêu dùng dịch vụ ở nước ngoài có vị trí quan trọng trong du lịch quốc tế. Phương thức 4 - Hiện diện thể nhân có tỷ trọng không đáng kể trong thương mại dịch vụ, nhưng đối với các nước đang phát triển như nước ta cũng rất quan trọng trong việc xuất khẩu lao động và thuê chuyên gia nước ngoài.

b- Thương mại dịch vụ có một số đặc điểm:

Thứ nhất: Dịch vụ là loại sản phẩm vô hình, không sờ mó, nhìn thấy được nhưng lại được cảm nhận qua tiêu dùng trực tiếp của khách hàng. Quá trình sản xuất và tiêu dùng sản phẩm dịch vụ diễn ra đồng thời, nhưng hiệu quả của dịch vụ đối với người tiêu dùng lại rất khác nhau. Có loại xẩy ra tức thì, nhưng có loại chỉ đem lại hiệu quả sau nhiều năm, chẳng hạn dịch vụ giáo dục phải sau 5-10 năm mới có thể đánh giá đầy đủ. Do đó, việc đánh giá hiệu quả thương mại dịch vụ phức tạp hơn so với thương mại hàng hóa.

Thứ hai: Thương mại dịch vụ có phạm vi hoạt động rất rộng, từ dịch vụ cho tiêu dùng cá nhân đến dịch vụ sản xuất, kinh doanh, quản lý trong tất cả các ngành của nền kinh tế quốc dân, thu hút đông đảo người tham gia với trình độ cũng rất khác nhau, từ lao động đơn giản như giúp việc gia đình, bán các hàng lưu niệm ở khu du lịch đến lao động chất xám có trình độ cao như các chuyên gia tư vấn, chuyên gia giáo dục…, do đó đây là một lĩnh vực có nhiều cơ hội phát triển và tạo được nhiều công ăn việc làm, rất có ý nghĩa về kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay.

Thứ ba: Thương mại dịch vụ hiện nay đang có sự lan tỏa rất lớn, ngoài tác dụng trực tiếp của bản thân dịch vụ, nó còn có vai trò trung gian đối với sản xuất và thương mại hàng hóa, nên phát triển thương mại dịch vụ có ảnh hưởng gián tiếp lên tất cả các ngành của nền kinh tế quốc dân, do đó tác dụng của thương mại dịch vụ là rất lớn. Người ta tính rằng, nếu thương mại dịch vụ được tự do hóa thì lợi ích của nó còn cao hơn thương mại hàng hóa hiện nay và xấp xỉ bằng lợi ích thu được khi tự do hóa thương mại hàng hóa hoàn toàn cho cả hàng hóa nông nghiệp và hàng hóa công nghiệp.

Thứ tư: Thương mại dịch vụ khi lưu thông qua biên giới gắn với từng con người cụ thể, chịu tác động bởi tâm lý, tập quán, truyền thống văn hóa, ngôn ngữ và cá tính của người cung cấp và người tiêu dùng dịch vụ, điều này khác với thương mại hàng hóa, sản phẩm là vật vô tri vô giác, đi qua biên giới có bị kiểm soát nhưng không phức tạp như kiểm soát con người trong thương mại dịch vụ, vì thế mà thương mại dịch vụ phải đối mặt nhiều hơn với những hàng rào thương mại so với thương mại hàng hóa. Các cuộc thương lượng để đạt được tự do hóa thương mại dịch vụ thường gặp nhiều khó khăn hơn tự do hóa thương mại hàng hóa, nó còn phụ thuộc vào tình hình chính trị, kinh tế - xã hội, văn hóa của nước cung cấp và nước tiếp nhận dịch vụ đó.

c- Các nguyên tắc của thương mại dịch vụ.

Hoạt động thương mại dịch vụ nói chung phải theo các nguyên tắc cơ bản của WTO đối với thương mại hàng hóa, nhưng có sự vận dụng linh hoạt đối với các nước đang phát triển và đặc điểm kinh tế - xã hội của từng quốc gia. Các nguyên tắc cơ bản của WTO bao gồm:

-Nguyên tắc không phân biệt đối xử, gồm hai quy chế: Đãi ngộ tối huệ quốc và Đối xử quốc gia.

- Nguyên tắc tiếp cận thị trường, bao gồm hai khía cạnh: Một là, các nước thành viên mở cửa thị trường cho nhau thông qua việc cắt giảm từng bước, tiến tới xóa bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan, mở đường cho thương mại phát triển; hai là, các chính sách, luật lệ thương mại phải được công bố công khai, kịp thời, minh bạch để có thể dự báo được môi trường và triển vọng thương mại.

- Nguyên tắc cạnh tranh công bằng, đòi hỏi các nước thành viên WTO loại bỏ bảo hộ bằng các biện pháp phi thuế, vì nó làm "méo mó thương mại" như hạn ngạch, giấy phép, hạn chế số lượng nhập khẩu…mà chỉ sử dụng công cụ duy nhất là thuế, nhưng các biểu thuế phải được giảm dần trong quá trình hội nhập.

- Nguyên tắc áp dụng các hành động khẩn cấp trong trường hợp cần thiết, cho phép các nước thành viên khước từ một nghĩa vụ nào đó hoặc có những hành động khẩn cấp, cần thiết, được các nước thành viên khác thừa nhận để bảo vệ sản xuất và thị trường trong nước khi bị hàng nhập khẩu thái quá đe dọa hoặc bị phân biệt đối xử gây phương hại cho nước đó.

- Nguyên tắc ưu đãi dành cho các nước đang phát triển và chậm phát triển, nhằm tạo điều kiện cho các nước này từng bước thích nghi với các thể chế của WTO như kéo dài thời gian hoặc giảm mức độ thực hiện các cam kết.

Nói chung, khi đã là thành viên của WTO thì các nguyên tắc cơ bản trên đây phải được tuân thủ cả trong thương mại hàng hóa và trong thương mại dịch vụ. Nhưng do những đặc điểm của thương mại dịch vụ luôn gắn với các điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, truyền thống dân tộc, an ninh quốc gia nên việc thực hiện các nguyên tắc này theo hướng tự do hóa còn nhiều hạn chế. Do đó, các nước đang phát triển được hưởng những "ưu tiên" khi thực hiện GATS nhằm khuyến khích các nước này phát triển kinh tế, từng bước thích nghi với điều kiện và nguyên tắc của WTO và giúp các nước mới gia nhập WTO cải cách kinh tế ở nước mình.

III- Tiếp cận thương mại dịch vụ theo hướng hiện đại

Lâu nay, nước ta đã mở quan hệ dịch vụ với nhiều nước như du lịch quốc tế, xuất khẩu lao động kể cả chuyên gia, thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển dịch vụ, phát triển viễn thông quốc tế… và thu được nhiều ngoại tệ đáng kể cho nền kinh tế. Theo Tổng cục Thống kê, riêng xuất khẩu dịch vụ năm 2001 đạt 2,81 tỉ USD, năm 2004 đạt 5,073 tỉ USD, năm 2005 dự kiến đạt 5,6 tỉ USD và đến năm 2010 dự kiến đạt 8 tỉ USD. Nghị quyết 07- NQ/TW của Bộ Chính trị về Hội nhập kinh tế quốc tế đã đề ra nhiệm vụ thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại hình thị trường hàng hóa, dịch vụ, lao động, khoa học - công nghệ, vốn, bất động sản…, tức là đã đề cập tới thị trường dịch vụ. Luật Thương mại được Quốc hội khóa 11 thông qua tại kỳ họp thứ 7 ngày 14/6/2005 đã có một chương (chương III) nói tới Cung ứng dịch vụ, trong đó có nhiều điều khoản nói tới cung ứng dịch vụ trong quan hệ quốc tế, tức là thương mại dịch vụ theo quy định của WTO.

Nước ta sắp trở thành thành viên chính thức của WTO, việc thực thi các điều khoản của Tổ chức thương mại thế giới lớn như thế này là điều bắt buộc, trong đó kể cả GATS. Trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, việc phát triển thương mại dịch vụ là phù hợp với xu thế chung của thời đại. Hiện nay, tỷ trọng dịch vụ trong GDP của các nước đã tăng lên đến 60-70%, trong khi ở nước ta ước đạt 38,5% năm 2005. Nước ta có vị trí địa lý thuận lợi, tài nguyên phong phú, con người thông minh và năng động, chính trị ổn định là tiềm năng to lớn cho phát triển thương mại dịch vụ, có sức cạnh tranh tương đối cao trong khu vực và thế giới. Bên cạnh đó, những thách thức và khó khăn không nhỏ, chủ yếu là khả năng thích nghi với nguyên tắc của WTO nói chung và của Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ còn hạn chế, cả trong doanh nghiệp cũng như trong quản lý nhà nước.

Để phát huy tiềm năng, khắc phục khó khăn, vượt qua thử thách trong hội nhập kinh tế quốc tế và tham gia đầy đủ các điều khoản của GATS nhằm phát triển mạnh thương mại dịch vụ cần thực hiện một số giải pháp chính sau đây:

Một là, đổi mới và nâng cao nhận thức về thương mại dịch vụ. Ngày nay, xu thế chung của thế giới cơ cấu kinh tế đang chuyển mạnh sang phát triển dịch vụ, giảm tỷ trọng giá trị nông nghiệp, giá trị công nghiệp. Đối với nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì nhất thiết phải tăng tỷ trọng công nghiệp cả về giá trị và lao động. Nhưng phát triển công nghiệp có bốn trở ngại lớn, đó là vốn lớn, lao động và công nghệ đòi hỏi trình độ cao, quản lý phức tạp, sức cạnh tranh thấp; trong khi phát triển dịch vụ thì bốn trở ngại đó không đến nỗi gay gắt như trong công nghiệp. Như vậy, chuyển dịch lao động nông nghiệp sang ngành dịch vụ có nhiều điều kiện thuận lợi hơn. Thời gian qua, nhiều địa phương phát triển công nghiệp nông thôn, đầu tư khá lớn nhưng sản phẩm hàng hóa làm ra do chất lượng thấp, giá thành cao, không thể cạnh tranh với sản phẩm do công nghiệp lớn trong nước sản xuất và hàng ngoại nhập với giá rẻ nên phải chịu lỗ và nhiều nơi bị thất bại. Trong khi đó, một số địa phương làm tốt công tác xuất khẩu lao động đã tạo công ăn việc làm và nâng cao thu nhập cho địa phương. Như vậy, về mặt nhận thức cần nhận rõ vai trò của ngành dịch vụ trong cơ cấu kinh tế ở nước ta. Thương mại dịch vụ của WTO chủ yếu là quan hệ thương mại quốc tế, nhưng trong xu thế toàn cầu hóa thì sự phân biệt trong nước và nước ngoài chỉ có tính tương đối, do đó mọi hoạt động dịch vụ trong nước cũng phải từng bước tiếp cận và thích nghi với thương mại dịch vụ trong quan hệ quốc tế.

Hai là, tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để thích nghi với Hiệp định chung về thương mại dịch vụ. Để từng bước hội nhập kinh tế quốc tế, cần quan tâm một số chính sách sau đây:

-Về chính sách cơ cấu kinh tế, cần đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng khai thác hợp lý và có hiệu quả tiềm năng và lợi thế sánh của từng vùng, từng địa phương chú trọng phát triển mạnh ngành dịch vụ. Phát triển dịch vụ và thương mại dịch vụ góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời khắc phục tình trạng phân tán, manh mún, năng suất thấp và thiếu bền vững của nông nghiệp hiện nay. Cần nhất quán thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, xóa bỏ tình trạng độc quyền trong kinh doanh của một số doanh nghiệp thuộc kinh tế nhà nước, không phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam.

- Đối với các chính sách kinh tế khác, đặc biệt là chính sách thương mại, cần nhanh chóng đổi mới để phù hợp với quy chế của GATS, trong đó đặc biệt tôn trọng nguyên tắc minh bạch , đảm bảo cho mọi cơ chế, chính sách của Nhà nước cũng như của doanh nghiệp được công khai, rõ ràng, kịp thời. Đó không chỉ là nguyên tắc quan trọng trong quan hệ quốc tế mà còn là quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là giải pháp hữu hiệu để phòng và chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.

Ba là, tạo lập môi trường thuận lợi phát triển thương mại dịch vụ. Môi trường để phát triển kinh tế nói chung và cho thương mại dịch vụ nói riêng là một hệ thống gồm nhiều loại, bao gồm môi trường: chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, pháp luật, thông tin, sinh thái…, chúng có quan hệ tác động lẫn nhau, hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hãm nhau và phụ thuộc chủ yếu bởi hệ thống chính sách đã nêu trên đây. Đối với thương mại dịch vụ, nếu có một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, pháp luật nghiêm minh phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế thì sẽ khuyến khích làm giàu hợp pháp đi liền với xóa đói giảm nghèo, giảm bớt bất công, chống tham nhũng, lãng phí, sẽ tạo điều kiện thuận lợi để phát triển thương mại dịch vụ. Đặc biệt, trong thương mại dịch vụ phải rất coi trọng xây dựng môi trường văn hóa - xã hội, môi trường sinh thái để thu hút khách quốc tế đến nước ta.

Bốn là, coi trọng phát huy nhân tố con người trong phát triển thương mại dịch vụ. Trong tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội và ở bất cứ giai đoạn nào thì nhân tố con người vẫn giữ vai trò quyết định. Tuy nhiên, khác với thương mại hàng hóa, ở đó, quan hệ giữa người sản xuất và người tiêu dùng là gián tiếp thông qua hàng hóa vật thể, trong thương mại dịch vụ, quan hệ giữa người cung ứng dịch vụ và người tiêu dùng dịch vụ nói chung là trực tiếp, do đó vai trò của nhân tố con người càng quan trọng hơn. Con người trong thương mại dịch vụ rất đa dạng về nghề nghiệp và trình độ, nhưng nói chung đều phải có tâm, có đức, có tài. Một người đi làm ở nước ngoài tuy là lao động giản đơn nhưng cũng phải biết ngoại ngữ, hiểu biết tâm lý, phong tục tập quán của nước sở tại, biết cách ứng xử lịch thiệp, giữ đúng quan hệ. Một chuyên gia đi phục vụ ở nước ngoài cần có trình độ uyên thâm, có phẩm chất đạo đức trong sáng, là tấm gương để nước ngoài nhìn nhận và đánh giá trí thức của Việt Nam. Sau khi trở thành thành viên của WTO và để phát triển thương mại dịch vụ thì con người Việt Nam nói chung phải có một sự thay đổi lớn về chất để có thể thích nghi với điều kiện mới.

SOURCE: TẠP CHÍ CỘNG SẢN SỐ 108 NĂM 2006

Chủ Nhật, 21 tháng 6, 2009

NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

GS. VS. NGUYỄN DUY QUÍ 

1 - Về phương diện lý luận, nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước. Nhà nước pháp quyền là giá trị phổ biến, là biểu hiện của một trình độ phát triển dân chủ

Trong ý nghĩa này, nhà nước pháp quyền được nhìn nhận như một cách thức tổ chức nền dân chủ, cách thức tổ chức nhà nước và xã hội trên nền tảng dân chủ. Điều này có nghĩa là nhà nước pháp quyền gắn liền với một nền dân chủ. Tuy không phải là một kiểu nhà nước được xác định theo lý luận về hình thái kinh tế - xã hội, nhưng nhà nước pháp quyền không thể xuất hiện trong một xã hội phi dân chủ.

Sự phủ nhận quan điểm xem nhà nước pháp quyền như một kiểu nhà nước có ý nghĩa nhận thức luận quan trọng trong việc nhìn nhận đúng bản chất của nhà nước pháp quyền. Ý nghĩa nhận thức luận này bao hàm các khía cạnh sau:

- Chỉ từ khi xuất hiện dân chủ tư sản, mới có cơ hội và điều kiện để xuất hiện nhà nước pháp quyền. Do vậy, trên thực tế, nhà nước pháp quyền tư sản đang được tuyên bố xây dựng ở hầu hết các quốc gia tư bản phát triển và đang phát triển.

- Nhà nước pháp quyền, với tính chất là cách thức tổ chức và vận hành của một chế độ nhà nước và xã hội, không những được xây dựng ở chế độ tư bản mà còn được xây dựng ở chế độ xã hội chủ nghĩa. Như vậy, trong nhận thức lý luận cũng như trong thực tiễn, có nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

- Ngoài các giá trị phổ biến, nhà nước pháp quyền còn bao hàm các giá trị đặc thù. Tính đặc thù của nhà nước pháp quyền được xác định bởi nhiều yếu tố. Các yếu tố này, về thực chất, là rất đa dạng, phong phú và phức tạp, được xác định bởi các điều kiện lịch sử, kinh tế, văn hóa, tâm lý xã hội và môi trường địa lý của mỗi dân tộc. Chúng không chỉ tạo ra các đặc sắc, tính riêng biệt của mỗi dân tộc trong quá trình dựng nước, giữ nước và phát triển mà còn quyết định mức độ tiếp thu và dung nạp các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền. Việc thừa nhận tính đặc thù của nhà nước pháp quyền có ý nghĩa nhận thức luận quan trọng. Với ý nghĩa này, nhà nước pháp quyền là một phạm trù vừa mang tính phổ biến, vừa mang tính đặc thù; vừa là giá trị chung của nhân loại, vừa là giá trị riêng của mỗi dân tộc, quốc gia. Do vậy, không thể có một nhà nước pháp quyền như một mô hình chung, thống nhất cho mọi quốc gia, dân tộc. Mỗi quốc gia, dân tộc, tùy thuộc vào các đặc điểm lịch sử, chính trị, kinh tế - xã hội và trình độ phát triển mà xây dựng cho mình một mô hình nhà nước pháp quyền thích hợp.

2 - Đối với Việt Nam, vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền đang được đặt ra như một tất yếu lịch sử và tất yếu khách quan

Tính tất yếu lịch sử của việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam bắt nguồn từ chính lịch sử xây dựng và phát triển của Nhà nước ta. Ngay từ khi thành lập và trong quá trình phát triển, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã và luôn là một nhà nước hợp hiến, hợp pháp. Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở các quy định của Hiến pháp và pháp luật và luôn vận hành trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Các đạo luật tổ chức Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và các đạo luật về chính quyền địa phương được xây dựng trên cơ sở các Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980 và năm 1992. Những lần Hiến pháp được sửa đổi và thông qua là những bước củng cố cơ sở pháp luật cho tổ chức và hoạt động của bản thân các cơ quan nhà nước. Vì vậy, có thể nói, quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là một quá trình lịch sử được bắt đầu ngay từ Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và Hiến pháp năm 1946. Quá trình này đã trải qua hơn nửa thế kỷ với nhiều giai đoạn phát triển đặc thù. Ngày nay, quá trình này đang được tiếp tục ở một tầng cao phát triển mới với nhiều đòi hỏi và nhu cầu cải cách mới.

Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam xuất phát từ định hướng xã hội chủ nghĩa mà mục tiêu cơ bản là xây dựng một chế độ xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chúng ta ý thức sâu sắc rằng, để xây dựng được một chế độ xã hội có tính mục tiêu như vậy, công cụ, phương tiện cơ bản chỉ có thể là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tính tất yếu khách quan ấy còn xuất phát từ đặc điểm của thời đại với xu thế toàn cầu hóa. Nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách nhà nước, cải cách pháp luật, bảo đảm cho Nhà nước không ngừng vững mạnh, có hiệu lực để giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, thực hành dân chủ, củng cố độc lập, tự chủ và hội nhập vững chắc vào đời sống quốc tế.

3 - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta là một nhà nước vừa phải thể hiện được các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền đã được xác định trong lý luận và thực tiễn của một chế độ dân chủ hiện đại, vừa phải khẳng định được bản sắc, đặc điểm của riêng mình

Sự khác nhau cơ bản giữa nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói chung, trong đó có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng, đã được các đề tài của Chương trình KX.04 khái quát trên những nét chính sau:

Một là, cơ sở kinh tế của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường không phủ nhận các quy luật khách quan của thị trường, mà là cơ sở để xác định sự khác nhau giữa kinh tế thị trường trong chủ nghĩa tư bản và kinh tế thị trường trong chủ nghĩa xã hội. Do vậy, đặc tính của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa tạo ra sự khác nhau giữa nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đồng thời tạo ra nét đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Hai là, cơ sở chính trị của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là chế độ dân chủ nhất nguyên. Chế độ dân chủ nhất nguyên là điều kiện cơ bản để tạo ra một đời sống dân chủ có tính thống nhất cao, một hệ thống chính trị thống nhất và là một đòi hỏi có tính nội tại của chế độ nhà nước và chế độ xã hội trong các điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do vậy, sự nhất nguyên chính trị phải luôn là thuộc tính của nhà nước xã hội chủ nghĩa - một nhà nước đòi hỏi tính thống nhất và tính tổ chức cao trong tổ chức cũng như trong hoạt động của mọi cấu trúc nhà nước để có thể đạt được các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.

Tính nhất nguyên chính trị được thể hiện trong việc khẳng định vai trò lãnh đạo của một đảng duy nhất cầm quyền ở Việt Nam. Bản chất của một nền dân chủ không lệ thuộc vào chế độ đa đảng hay chế độ một đảng, mà lệ thuộc vào chỗ đảng cầm quyền đại diện cho lợi ích của ai, sử dụng quyền lực nhà nước vào những mục đích gì trên thực tế. Vì vậy, điều kiện để xây dựng nhà nước pháp quyền không thể là chế độ đa đảng hay chế độ một đảng và không thể coi đó là căn cứ để đánh giá tính chất và trình độ của một nền dân chủ. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản - đảng duy nhất cầm quyền đối với đời sống xã hội và đời sống nhà nước không những không trái với bản chất nhà nước pháp quyền nói chung mà còn là điều kiện có ý nghĩa tiên quyết đối với quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta.

Ba là, cơ sở xã hội của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Với khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhà nước pháp quyền có được cơ sở xã hội rộng lớn và khả năng to lớn trong việc tập hợp, tổ chức các tầng lớp nhân dân thực hành và phát huy dân chủ.

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tuy không loại bỏ được sự phân tầng xã hội theo hướng phân hóa giàu, nghèo nhưng có khả năng xử lý tốt hơn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Những mâu thuẫn xã hội phát sinh trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường do được điều tiết thông qua pháp luật, chính sách và các công cụ khác của nhà nước nên ít có nguy cơ trở thành các mâu thuẫn đối kháng và tạo ra các xung đột có tính chất chia rẽ xã hội. Đây là một trong những điều kiện để bảo đảm ổn định chính trị, đoàn kết các lực lượng xã hội vì các mục tiêu chung của sự phát triển.

Tính nhất nguyên chính trị và sự lãnh đạo của một đảng duy nhất cầm quyền tạo ra khả năng đồng thuận xã hội, tăng cường khả năng hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa các giai tầng, các cộng đồng dân cư và các dân tộc. Nhờ vậy, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có được sự ủng hộ rộng rãi từ phía xã hội, nguồn sức mạnh từ sự đoàn kết toàn dân, phát huy được sức sáng tạo của các tầng lớp dân cư trong việc thực hành và phát huy dân chủ.

4 - Một số vấn đề về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của nước ta hiện nay

Để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta hiện nay, một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết là chúng ta phải sớm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.

Nhu cầu đổi mới tư duy pháp lý đã được đặt ra và quán triệt trong giai đoạn đấu tranh loại bỏ cơ chế pháp lý của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, xây dựng cơ chế pháp lý cho cơ chế kinh tế mới. Ngày nay, một lần nữa nhu cầu đổi mới tư duy pháp lý lại được đặt ra với tính cấp thiết mạnh mẽ, kiên quyết, vượt ra khỏi khuôn khổ có tính truyền thống lâu nay trong việc xây dựng pháp luật và thi hành pháp luật. Tư duy pháp lý mới có thể được phác thảo trên những nét chính sau:

1 - Xác định và quán triệt cơ sở lý thuyết cho mô hình luật pháp nước ta trong giai đoạn phát triển đến 2010 và các giai đoạn tiếp theo. Điều này có nghĩa là chúng ta cần nhanh chóng xác định mô hình luật pháp nước ta được xây dựng theo lý thuyết nào. Dĩ nhiên, chúng ta không thể áp dụng một cách máy móc các mô hình lý thuyết hiện đang được áp dụng ở các quốc gia trên thế giới. Nhưng chúng ta cũng không thể không tính đến sự ảnh hưởng và chi phối của các lý thuyết này đối với sự vận động của đời sống pháp luật hiện đại. Vì vậy, việc nghiên cứu xây dựng các cơ sở lý thuyết cho mô hình luật pháp nước ta cần đặt trong mối quan hệ giữa hai yếu tố: dân tộc và hiện đại.

Cần có các nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm lịch sử của các thế hệ người Việt Nam trong tiến trình xây dựng và thực thi các thể chế pháp lý. Các kinh nghiệm làm luật và thi hành luật trong các giai đoạn lịch sử cho thấy, các thế hệ người Việt Nam khá thành công trong việc tiếp thu các giá trị pháp lý nước ngoài, làm nên một bản sắc pháp lý Việt Nam. Xin hãy lấy Quốc triều hình luật thời Lê (Bộ Luật Hồng Đức) để suy ngẫm: Bộ Luật Hồng Đức, theo đánh giá của sử gia Phan Huy Chú, "Thật là cái mẫu mực để trị nước, các khuôn phép để buộc dân". Điều cần nhấn mạnh là, mặc dù chịu ảnh hưởng của tư tưởng pháp lý và các quy tắc pháp luật của Trung Hoa thời phong kiến, nhưng Bộ Luật Hồng Đức vẫn là bộ luật của người Việt Nam, là sản phẩm văn hóa của người Việt Nam, chứ không phải là sự sao chép máy móc pháp luật của nhà Đường hay nhà Minh.

Trong lịch sử, dân tộc ta đã rất thông minh và chủ động trong việc tiếp thu pháp luật nước ngoài để cách tân đất nước. Ngày nay, chúng ta cũng cần tiếp thu có chọn lọc các giá trị pháp luật nước ngoài một cách chủ động và thông minh để tiếp tục củng cố và phát triển đất nước. Tuy nhiên, việc tiếp thu các giá trị và kinh nghiệm pháp luật nước ngoài cần tuân theo ba điều kiện cơ bản: Thứ nhất, tư tưởng của pháp luật du nhập phải tương đồng với ý thức pháp lý đang thống trị ở nước tiếp nhận. Thứ hai, pháp luật du nhập phải tương đồng với cấu trúc, hình thái và phương thức tổ chức quyền lực nhà nước tại quốc gia sở tại. Thứ ba, pháp luật du nhập phải phù hợp với phương thức sản xuất xã hội, phải được số đông thành viên trong xã hội chấp nhận và ủng hộ.

2 - Nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa, bảo đảm sự tương thích của pháp luật quốc gia với các không gian pháp lý có tính quốc tế đang đòi hỏi chúng ta phải đẩy mạnh việc đổi mới công tác lập pháp. Việc đổi mới công tác lập pháp có thể khái quát trên một số nét sau:

Một là, đổi mới công tác kế hoạch lập pháp: Kế hoạch làm luật nếu chỉ được tiến hành trên cơ sở đề xuất của các cơ quan hữu quan để tập hợp, cân đối và thông qua sẽ không thể khắc phục được tình trạng không hoàn thành kế hoạch, vì không ít dự án luật được đăng ký theo kiểu "giữ chỗ" và trên thực tế, rất khó xây dựng do chưa xác định được đầy đủ tính chất, mục tiêu, đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh. Sự đăng ký văn bản theo kiểu "ghi danh" đã không ràng buộc một cách chặt chẽ trách nhiệm của cơ quan đề xuất dự luật. Để khắc phục tình trạng này, nên chăng, thay vì xây dựng và thông qua kế hoạch làm luật hằng năm và 5 năm thường lệ, Quốc hội chỉ cần thông qua các sáng kiến pháp luật. Cá nhân, cơ quan (theo quy định của pháp luật) nêu sáng kiến pháp luật có trách nhiệm lập luận các căn cứ về sự cần thiết của mục tiêu, đối tượng cần điều chỉnh và tính khả thi của công tác xây dựng văn bản; trên cơ sở đó, Quốc hội thảo luận, thông qua và giao trách nhiệm xây dựng dự thảo cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân phù hợp.

Hai là, thay đổi quan niệm về quy mô các đạo luật: Thực tiễn làm luật ở nước ta thời gian qua cho thấy, các đạo luật được xây dựng và thông qua phần nhiều đều có dung lượng khá lớn các quy phạm và đối tượng điều chỉnh; phạm vi điều chỉnh cũng khá lớn. Chính sự đầu tư "nhân, tài, vật, lực" cho các đạo luật có quy mô lớn đã làm cho công việc soạn thảo các dự thảo văn bản bị kéo dài, tính chất đồng bộ và thống nhất của dự thảo trong mối quan hệ với các đạo luật khác nhiều khi không được bảo đảm. Đặc biệt, các đạo luật lớn vì phức tạp nên thường phải tranh luận, thảo luận nhiều thời gian mới mong đạt được sự thống nhất các quan điểm và cách thức thể hiện. Do vậy, việc chuẩn bị xây dựng dự thảo tại các ban soạn thảo, thẩm định, thảo luận, chỉnh lý và thông qua tại Quốc hội thường kéo dài. Khoảng cách giữa nhu cầu cấp bách phải điều chỉnh và khả năng điều chỉnh của đạo luật ngày càng xa đã dẫn đến tình trạng, đợi được luật ra đời, cuộc sống đã biến chuyển sang một mức độ phát triển khác. Để khắc phục tình trạng này, thay vì xây dựng và thông qua các đạo luật có quy mô lớn, nên tập trung xây dựng và thông qua các đạo luật có quy mô điều chỉnh hẹp. Một đạo luật với ít các điều khoản sẽ được nhanh chóng xây dựng, đáp ứng kịp thời các nhu cầu điều chỉnh pháp luật, dễ dàng tương thích với các không gian pháp lý quốc tế. Tính hữu ích của một đạo luật ít điều khoản không chỉ thể hiện ở sự gọn nhẹ về nội dung, dễ xây dựng, mà còn thể hiện ở việc dễ kiểm soát tính đồng bộ và thống nhất, dễ sửa đổi khi có nhu cầu và dễ áp dụng trên thực tế.

Ba là, đổi mới cách thức và quy trình thông qua luật: Phong cách làm luật lâu nay của cơ quan lập pháp thể hiện ở các hoạt động thảo luận của các đại biểu Quốc hội, thẩm định của các ủy ban của Quốc hội, giải trình tiếp thu của cơ quan soạn thảo, đã rất khó nâng cao được chất lượng và hiệu quả của đạo luật. Sự thảo luận chủ yếu ở dạng câu chữ đã chiếm khá nhiều thời gian, trong khi nội dung dự thảo lại ít được chú ý. Do vậy, ý kiến thảo luận của đại biểu Quốc hội đối với các dự thảo chất lượng chưa cao. Để khắc phục tình trạng này, trước khi dự thảo luật được đưa ra thảo luận tại Quốc hội, cần tiến hành thẩm định về mặt khoa học bởi các nhóm chuyên gia từ các viện nghiên cứu, các trường đại học với nhiệm vụ đánh giá về phương diện khoa học toàn bộ dự án luật, từ hình thức biểu đạt, cấu trúc đến nội dung các điều luật, nhằm phát hiện ra các lỗi cả về kỹ thuật văn bản, lẫn nội dung văn bản. Sự thẩm định khoa học về dự thảo văn bản do các nhóm chuyên gia thực hiện một cách độc lập vừa là cơ sở để ban soạn thảo chỉnh lý văn bản, vừa là tài liệu tham khảo cho các đại biểu Quốc hội khi thảo luận dự thảo. Mặt khác, để nâng cao chất lượng các đạo luật, quy trình thông qua dự thảo cần được tiến hành theo hai bước: thảo luận, thông qua tại một ủy ban tương ứng của Quốc hội và thảo luận, thông qua tại phiên họp toàn thể của Quốc hội. Như vậy, chỉ khi nào dự thảo được thông qua tại một ủy ban của Quốc hội thì mới được xem xét, thảo luận, thông qua tại Quốc hội. Quy định như vậy không chỉ nêu cao vai trò làm luật của các ủy ban của Quốc hội, mà còn tiết kiệm thời gian làm việc của Quốc hội, nâng cao hiệu quả của đạo luật.

Bốn là, tăng cường lắng nghe ý kiến nhân dân đóng góp xây dựng các dự thảo luật: Các dự thảo luật một khi được xây dựng ngắn gọn, ít điều khoản sẽ rất dễ dàng cho nhân dân tiếp cận. Sự tham gia đóng góp ý kiến xây dựng pháp luật của đông đảo các tầng lớp nhân dân là điều kiện quan trọng để pháp luật phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của nhân dân, bảo đảm cho pháp luật thật sự là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Cần quy định, việc lấy ý kiến của nhân dân (chứ không chỉ là lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức hay của một số cán bộ) đối với các dự án luật là điều kiện bắt buộc trong quá trình xây dựng dự thảo. Đặc biệt, việc tiếp thu ý kiến của nhân dân vào các dự thảo (tiếp thu ý kiến nào, không tiếp thu ý kiến nào, vì sao) phải được thông báo công khai và minh bạch. Có như vậy, nhân dân mới cảm thấy ý kiến của mình được tôn trọng và mặt khác, mới củng cố niềm tin của họ vào luật pháp.

SOURCE: TẠP CHÍ CỘNG SẢN SỐ 96 NĂM 2005

Thứ Tư, 17 tháng 6, 2009

GIAO DỊCH BẢO ĐẢM: NHỮNG KẼ HỞ VÀ RỦI RO

TS. NGUYỄN QUỐC VINH – Học viện Tư pháp, Bộ Tư pháp

Nghị định số 163/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 29-12-2006 hướng dẫn thi hành Bộ luật Dân sự 2005 về các giao dịch bảo đảm (Nghị định 163) đã ban hành và có hiệu lực được hơn hai năm. Bài viết này phân tích một số quy định chưa hợp lý hoặc còn thiếu sót của Nghị định 163 nhìn từ góc độ vận dụng trên thực tiễn hoặc khi đối chiếu với các quy định của một số văn bản quy phạm pháp luật khác như Luật Nhà ở 2005. 

Về thỏa thuận thứ tự ưu tiên thanh toán

Khoản 2 điều 6 Nghị định 163 quy định rằng: “Các bên cùng nhận bảo đảm bằng một tài sản có quyền thỏa thuận về việc thay đổi thứ tự ưu tiên thanh toán cho nhau. Bên thế quyền ưu tiên thanh toán chỉ được ưu tiên thanh toán trong phạm vi bảo đảm của bên mà mình thế quyền”. Ở đây chúng ta có thể chia quy định này thành hai vế. Vế thứ nhất cho phép các bên liên quan thỏa thuận thay thế thứ tự ưu tiên khi tài sản bảo đảm được xử lý (mặc dù bên được thế quyền ưu tiên đăng ký giao dịch bảo đảm sau bên bị thế quyền). Vế thứ hai quy định rằng phạm vi được ưu tiên thanh toán chỉ “trong phạm vi bảo đảm” của bên bị thế quyền.

Theo vế thứ nhất, quy định này có nghĩa là nếu một tài sản được dùng bảo đảm cho hai hoặc nhiều nghĩa vụ(1) thì các bên được bảo đảm có quyền thỏa thuận về thứ tự được ưu tiên thanh toán khi tài sản bảo đảm được xử lý. Trên thực tế, thỏa thuận về thứ tự thanh toán khi tài sản bảo đảm được xử lý là khá phổ biến, đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng.

Ví dụ, doanh nghiệp A thế chấp với doanh nghiệp B là doanh nghiệp mẹ của A tài sản là một nhà máy với tài sản, máy móc trong đó để bảo đảm cho khoản vay V1. Hợp đồng thế chấp cho khoản vay V1 đã được thực hiện và đăng ký với một trung tâm đăng ký giao dịch, tài sản (thuộc Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm - Bộ Tư pháp) (Trung tâm đăng ký tài sản). Đồng thời, doanh nghiệp A thế chấp chính tài sản này với ngân hàng C cho khoản vay V2 (tất nhiên, với điều kiện được sự chấp thuận của cả B và C). Thông thường, để bảo vệ quyền lợi của mình, ngân hàng C sẽ yêu cầu doanh nghiệp A và doanh nghiệp B cùng mình giao kết một thỏa thuận ba bên trong đó doanh nghiệp B đồng ý cho ngân hàng C thế quyền ưu tiên thanh toán trong trường hợp tài sản bảo đảm được xử lý. Thỏa thuận ba bên về thứ tự ưu tiên thanh toán trên là phù hợp với thực tiễn đang áp dụng tại Việt Nam cũng như trên thế giới và phù hợp với quy định tại vế thứ nhất của khoản 2 điều 6 Nghị định 163.

Tuy nhiên, ngoài thỏa thuận về thay đổi thứ tự ưu tiên thanh toán theo vế thứ nhất nói trên, trên thực tế thỏa thuận ba bên sẽ còn quy định rằng: “khoản tiền thu được khi xử lý tài sản thế chấp sẽ được ưu tiên thanh toán trước cho toàn bộ nghĩa vụ của doanh nghiệp A với ngân hàng C (bao gồm khoản vay gốc, tiền lãi, lãi phạt, các khoản phí ngân hàng...). Khoản tiền còn lại sau khi thanh toán cho ngân hàng C sẽ được thanh toán cho doanh nghiệp B”.

Như vậy, so sánh thỏa thuận ba bên này với vế thứ hai của khoản 2 điều 6 Nghị định 163 (được ưu tiên thanh toán trong phạm vi bảo đảm của bên mà mình thế quyền) chúng ta thấy một điểm khác biệt rất lớn giữa quy định của pháp luật và thỏa thuận trên thực tế của ba bên. Đó là trong khi thỏa thuận ba bên cho phép bên thế quyền (ngân hàng C) được ưu tiên thanh toán cho mọi quyền lợi của nó phát sinh từ hợp đồng vay V2 thì Nghị định 163 chỉ cho phép thế quyền trong phạm vi quyền lợi của B với A phát sinh từ hợp đồng vay V1. Câu hỏi đặt ra là vì sao vậy? Vì sao Nghị định 163 chỉ cho phép phạm vi thế quyền giới hạn trong nghĩa vụ thứ nhất (V1)? Thỏa thuận ba bên như trên có bị vô hiệu hay không khi nó rõ ràng vi phạm quy định của Nghị định 163? Và nếu nhìn vào căn nguyên của vấn đề thì nhà làm luật can thiệp vào quyền tự định đoạt của các bên (A, B và C) để bảo vệ quyền và lợi ích của ai?

Nếu diễn giải theo quy định tại khoản 2 điều 6 nói trên thì thứ tự thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm sẽ là: (1) ngân hàng C trong phạm vi khoản vay V1 (theo quy định tại khoản 2 điều 6 Nghị định 163); doanh nghiệp B trong phạm vi khoản vay V1 (cũng theo quy định này); và (3) lại là ngân hàng C trong phạm vi V2 - V1 (sau khi thanh toán cho (1) và (2) nói trên). Nhìn vào thứ tự thanh toán này, chúng ta thấy một điều rõ ràng: đó là sự khó hiểu và khó lý giải. Vì sao mà phạm vi thế quyền ưu tiên thanh toán luôn chỉ là V1 chứ không phải là V2 như thỏa thuận ba bên?

Trong phạm vi hiểu biết của mình về một số hệ thống pháp luật điển hình như Anh và Nhật Bản thì thỏa thuận ba bên trên đây là thỏa thuận dân sự(2) thuần túy. Vì không có sự hiện diện của lợi ích công cộng/lợi ích cộng đồng hay mục đích bảo vệ bên ngay tình trong giao dịch loại này nên không có căn cứ để Nhà nước (thông qua nhà làm luật) can thiệp vào quyền tự quyết của các bên(3).  Nói cách khác, chúng ta không hề thấy yếu tố lợi ích công cộng hoặc lợi ích của bên ngay tình trong thỏa thuận ba bên trên đây. Thỏa thuận này chỉ đơn giản cho phép một bên thay thế bên kia để hưởng một quyền nào đó (quyền được ưu tiên thanh toán từ một bên thứ ba). Trong thỏa thuận này, thật khó có thể chứng minh được sự tồn tại của hai yếu tố lợi ích công cộng hay bảo vệ quyền lợi của bên ngay tình để nhà làm luật cần phải can thiệp vào.

Vì vậy, khi một quy định không có lý do để chứng minh sự tồn tại hợp lý của nó (vì sao phạm vi thế quyền ưu tiên thanh toán chỉ trong phạm vi nghĩa vụ đầu tiên V1), khuyến nghị cơ quan làm luật nên sửa đổi khoản 2 điều 6 Nghị định 163 hoặc dự thảo thông tư theo hướng hoặc bỏ quy định: “Bên thế quyền ưu tiên thanh toán chỉ được ưu tiên thanh toán trong phạm vi bảo đảm của bên mà mình thế quyền” trong nghị định hoặc sửa đổi dự thảo thông tư: “Bên thế quyền ưu tiên thanh toán chỉ được ưu tiên thanh toán trong phạm vi bảo đảm của bên mà mình thế quyền, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác”. Như vậy sẽ phù hợp hơn với thực tiễn, tôn trọng quyền tự quyết của các bên trong một giao dịch dân sự thuần túy và tương thích với chuẩn mực thế giới.

Về tài sản hình thành trong tương lai là căn hộ chung cư

Điều 8 Nghị định 163 quy định: “Trong trường hợp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản hình thành trong tương lai thì khi bên bảo đảm có quyền sở hữu một phần hoặc toàn bộ tài sản bảo đảm, bên nhận bảo đảm có các quyền đối với một phần hoặc toàn bộ tài sản đó...”.

Nhìn chung thì quy định này áp dụng cho mọi loại tài sản hình thành trong tương lai bao gồm máy móc, vật tư đang hoặc sẽ mua, tài sản khác đang được hình thành như khoản phải thu... trong đó có một dạng tài sản mà Việt Nam thừa nhận và cho phép giao dịch đó là căn hộ chung cư hoặc nhà thuộc dự án đang hoặc đã được xây dựng nhưng chưa có Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở/Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở (còn gọi chung là sổ hồng).

Việc Việt Nam cho phép các bên giao dịch (bao gồm mua bán, thế chấp...) đối với những căn hộ loại này trước khi nó được cấp sổ hồng thực sự là một điều đáng lo ngại về mặt pháp lý. Nó giống như những quả bom nổ chậm, chờ đến giờ là nổ. Những rủi ro về mặt pháp lý nhìn từ góc độ giao dịch bảo đảm có thể liệt kê ở đây là:

Thứ nhất, đó là rủi ro về cùng một tài sản có thể được thế chấp ở hai nơi khác nhau theo quy trình khác nhau. Quy trình một là đăng ký với Trung tâm đăng ký tài sản dưới góc độ thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán căn hộ. Quy trình thứ hai là công chứng hợp đồng thế chấp theo Luật Nhà ở.

Thông thường với một bất động sản là đất đai hoặc nhà ở đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng/quyền sở hữu khi bất động sản này được dùng để thế chấp thì quy trình thế chấp là hợp đồng thế chấp được công chứng với cơ quan công chứng và việc thế chấp được đăng ký với cơ quan đất/nhà tại địa phương. Tuy nhiên, đối với căn hộ chung cư (hoặc nhà trong dự án) là tài sản hình thành trong tương lai chưa có sổ hồng, quy trình này về cơ bản không được áp dụng (trừ một ngoại lệ nói dưới đây).

Trên thực tế, cơ quan công chứng đồng ý thực hiện công chứng các hợp đồng thế chấp căn cứ vào hướng dẫn của Bộ Tư pháp tại Công văn số 2057/BTP-HCTP ngày 9-5-2007 về công chứng hợp đồng thế chấp tài sản hình thành trong tương lai (Công văn 2057). Tuy nhiên, vướng mắc ở chỗ khi đi đăng ký việc thế chấp này tại văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất/phòng quản lý đô thị (tùy tên gọi tại mỗi địa phương) thì các cơ quan đăng ký này từ chối việc đăng ký (4) vì theo các cơ quan này thì việc thế chấp căn hộ hình thành trong tương lai vi phạm điểm a, khoản 1, điều 91 Luật Nhà ở 2005 (5).

Để giải quyết vấn đề thực tiễn này (vì đã cho phép mua bán thì phải thừa nhận các quyền phát sinh theo hợp đồng mua bán, ví dụ quyền thế chấp của bên mua), Bộ Tư pháp ra Công văn số 232/ĐKGDBĐ-NV ngày 4-10-2007 (Công văn 232) hướng dẫn rằng quyền của người mua căn hộ từ hợp đồng mua bán được coi là quyền tài sản theo điều 322 Bộ luật Dân sự 2005 và vì vậy quyền tài sản này có thể đem thế chấp (6) . Đồng thời hợp đồng thế chấp (quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán căn hộ) có thể được đăng ký tại một trung tâm đăng ký tài sản.

Từ đây phát sinh một quả bom nổ chậm là nếu người mua nhà A thế chấp căn hộ chưa có sổ hồng với ngân hàng C và công chứng hợp đồng thế chấp này theo hướng dẫn của Công văn 2057. Sau đó (với sự đồng lõa của chủ đầu tư) người này thế chấp chính căn hộ đó với ngân hàng D và đăng ký hợp đồng thế chấp này với Trung tâm đăng ký tài sản theo hướng của Công văn 232. Khi xử lý tài sản thế chấp là căn hộ, pháp luật Việt Nam sẽ bảo vệ ai, ngân hàng C hay ngân hàng D?

Liệu quy định giản đơn rằng: “Trong trường hợp một tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự mà có giao dịch bảo đảm có đăng ký, có giao dịch bảo đảm không đăng ký thì giao dịch bảo đảm có đăng ký được ưu tiên thanh toán” theo khoản 2 điều 325 Bộ luật Dân sự có đủ bảo vệ ngân hàng D khi ngân hàng B cũng có những căn cứ để bảo vệ mình theo Luật Nhà ở (đã thỏa mãn yêu cầu công chứng theo khoản 3 điều 93 Luật Nhà ở)?

Thứ hai, trên thực tế đối với các dự án căn hộ thì chủ đầu tư cũng đã thế chấp miếng đất và khu chung cư hình thành trong tương lai (tài sản hình thành từ vốn vay) cho một ngân hàng, ví dụ ngân hàng C. Đồng thời, chủ đầu tư cũng cho phép người mua căn hộ (khi chưa có sổ hồng) thế chấp với một ngân hàng khác, ví dụ ngân hàng D.

Quả bom nổ chậm thứ hai ở đây là nếu chủ đầu tư không thanh toán được nợ với ngân hàng C thì hậu quả xử lý tài sản thế chấp là như thế nào? Quyền lợi của ngân hàng nhận thế chấp miếng đất và khu chung cư hình thành trong tương lai từ chủ dự án (ngân hàng C) hay quyền lợi của ngân hàng nhận thế chấp căn hộ từ người mua căn hộ (ngân hàng D) được pháp luật Việt Nam bảo vệ?

Có lẽ rất ít nước trên thế giới cho phép chủ đầu tư được bán căn hộ trước khi căn hộ có giấy tờ sở hữu vì nó tiềm ẩn nhiều tranh chấp (như chúng ta đã thấy đó là việc chậm trễ khi bàn giao căn hộ, chất lượng căn hộ không như thỏa thuận hay có thừa nhận các quyền phát sinh như quyền thế chấp của bên mua hay không).

Anh là một trong những nước này. Tuy nhiên, Anh khác với Việt Nam ở điểm họ sẽ coi đây là giao dịch dân sự thuần túy, các bên (bên bán và bên mua) phải tự chịu trách nhiệm cho quyết định mua hay bán của mình. Các bên hãy lường rủi ro trước khi giao dịch.

Điểm khác biệt thứ hai có lẽ là nhận thức hay dân trí cũng có một khoảng cách giữa Anh và Việt Nam. Ở Việt Nam, nhiều khi sự vụ dân sự thuần túy các bên cũng “quen” ỷ lại vào Nhà nước, nhờ Nhà nước can thiệp. Nhiều khi chỉ vì lý do muốn được bao cấp cho thói tham lam. Lý do cuối cùng là cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm tại Anh là một chứ không nhiều như tại Việt Nam (khiến tài sản có thể được hiểu cong cong theo nhiều góc độ để giải quyết được vấn đề tình thế... và những lý do khác nữa).

Khi kinh nghiệm/thực tiễn nước ngoài đối với vấn đề này bị hạn chế thì các nhà làm luật Việt nam vẫn phải trả lời các câu hỏi phát sinh từ hai vấn đề nêu trên. Và chúng ta cần chờ xem giải pháp đối với vấn đề này như thế nào?

Về quan hệ giữa giao dịch bảo lãnh và cầm cố hoặc thế chấp

Vì pháp luật Việt Nam cho rằng giao dịch bảo lãnh không cần phải (không được) đăng ký nên vấn đề vướng mắc nảy sinh là pháp luật sẽ bảo vệ ai khi người bảo lãnh đem cầm cố hoặc thế chấp tài sản của mình? Tình huống xảy ra ở đây là để bảo lãnh cho nghĩa vụ thanh toán với ngân hàng C của doanh nghiệp A, doanh nghiệp B (là doanh nghiệp mẹ của A) giao kết hợp đồng bảo lãnh với ngân hàng C.

Một điều khoản của hợp đồng bảo lãnh quy định rằng: “kể từ thời điểm giao kết hợp đồng bảo lãnh, doanh nghiệp B sẽ không giao kết bất kỳ một giao dịch bảo đảm nào (ngoại trừ bảo lãnh với ngân hàng C) với bất kỳ một bên thứ ba nào khác”.

Sau khi hợp đồng bảo lãnh được giao kết, doanh nghiệp B thế chấp toàn bộ đất đai, nhà xưởng của mình với ngân hàng D. Hợp đồng thế chấp được công chứng và đăng ký theo quy định pháp luật.

Vấn đề xảy ra là nếu A không thanh toán được nợ và ngân hàng C yêu cầu doanh nghiệp B thanh toán bằng cách giao tài sản là khu đất và nhà xưởng (đã được thế chấp cho ngân hàng D) vốn là tài sản chính của B để trả nợ theo quy định tại điều 369 Bộ luật Dân sự. Câu hỏi ở đây là: pháp luật Việt Nam bảo vệ ai, ngân hàng C hay ngân hàng D? Liệu quy định đơn giản của khoản 2 điều 325 Bộ luật Dân sự nói trên có đủ bảo vệ ngân hàng D?

Giao dịch bảo đảm có yếu tố nước ngoài

Yếu tố nước ngoài ở đây được hiểu là một bên trong giao dịch là cá nhân hoặc pháp nhân Việt Nam còn bên kia là cá nhân hoặc pháp nhân tại nước ngoài. Chúng ta hiểu là đương nhiên Bộ luật Dân sự, Nghị định 163, Nghị định 08/2000/NĐ-CP về đăng ký giao dịch bảo đảm và các văn bản hướng dẫn nghị định này sẽ được áp dụng nếu các bên lựa chọn luật Việt Nam là luật áp dụng cho giao dịch bảo đảm và nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam trong vấn đề này là không có quy định cấm đối với việc cá nhân, tổ chức nước ngoài nhận bảo đảm đối với tài sản (trừ đối với tài sản là bất động sản) tại Việt Nam.

Tuy nhiên, quy định như thế này chưa đủ. Một số vấn đề đã vướng mắc trên thực tiễn nhưng chưa được giải đáp. Ví dụ như trường hợp xử lý tài sản bảo đảm của bên Việt Nam đối với bên nước ngoài. Các bên thỏa thuận được việc xử lý tài sản bảo đảm và việc xử lý tài sản đã xong (giả sử nhờ một doanh nghiệp Việt Nam bán đấu giá). Nhưng vấn đề còn chưa được giải quyết là làm thế nào để chuyển số tiền thu được từ việc xử lý tài sản bảo đảm ra nước ngoài? Vấn đề này hoàn toàn chưa được quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam.

Ngoài ra, chúng ta cũng sẽ không ngạc nhiên nếu một cá nhân hoặc pháp nhân Việt Nam đã, đang hoặc trở thành bên nhận bảo đảm cho một tài sản bảo đảm ở nước ngoài. Ví dụ doanh nghiệp A là doanh nghiệp Việt Nam thành lập một doanh nghiệp liên doanh B tại nước F. Để bảo lãnh cho B vay vốn, A yêu cầu B thế chấp nhà xưởng, máy móc cũng như khoản phải thu tại nước F cho mình. Câu hỏi với nhà làm luật Việt Nam hiện tại là có cho phép giao dịch (bảo đảm) loại này không và nếu có thì làm thế nào để có thể chuyển tiền từ nước ngoài (khi xử lý xong tài sản bảo đảm) về Việt Nam.

Hai vấn đề trên lại là những vấn đề rất cần sự hướng dẫn của nhà làm luật Việt Nam. Có thể tại dự thảo thông tư hướng dẫn Nghị định 163 hoặc một văn bản liên ngành về giao dịch bảo đảm và ngoại hối.

______________________________________________

(1) Lưu ý: việc thế chấp một tài sản cho điều này được thừa nhận theo điều 324 Bộ luật Dân sự 2005 (“BLDS”).

(2) Dân sự trong trường hợp này mang nghĩa không phải giao dịch hành chính hoặc hình sự trong đó Nhà nước là một bên giao dịch, hành xử để bảo vệ quyền lợi của cộng đồng.

(3) Có thể nói tại mọi hệ thống pháp luật, nhà nước chỉ can thiệp (vô hiệu) vào hợp đồng nếu (i) hợp đồng đó gây thiệt hại đến lợi ích công cộng (như BLDS của chúng ta gọi là “vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội”); hoặc (ii) để bảo vệ bên ngay tình. Nếu thiếu hai yếu tố này, sự can thiệp của nhà nước là không cần thiết (không được phép).

(4) Có một ngoại lệ được áp dụng đối với những căn hộ của Công ty liên doanh Phú Mỹ Hưng vì theo giải thích của cơ quan nhà đất quận 7, TPHCM thì việc đăng ký thế chấp được bảo lãnh bởi Ban quản lý đầu tư và xây dựng khu đô thị mới Nam Sài Gòn (MASD). Việc Ban quản lý này bảo lãnh cho việc thế chấp căn hộ chưa có sổ hồng, nếu phân tích sâu thêm, là một điều thú vị và khó lý giải từ góc độ pháp lý.

(5) Theo điều 91 Luật Nhà ở 2005 thì một trong những điều kiện để xác lập các giao dịch về nhà ở, trong đó có thế chấp là cá nhân, tổ chức phải “có giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với nhà ở...”.

(6) Việc nhìn tài sản (căn hộ) này từ hai góc độ quyền sở hữu với vật (theo lý thuyết vật quyền) và quyền phát sinh từ hợp đồng mua bán (theo lý thuyết về trái quyền) cũng là vấn đề thực sự “thú vị”, đáng suy ngẫm. Nó thể hiện sự non yếu về lý thuyết và tiềm ẩn rất nhiều rủi ro về mặt pháp lý trong tương lai nếu chúng ta cứ phát triển lý thuyết về quyền sở hữu theo hướng này.

SOURCE: THỜI BÁO KINH TẾ SÀI GÒN

Trích dẫn từ: http://www.thesaigontimes.vn/Home/doanhnghiep/phapluat/19937/

Thứ Bảy, 13 tháng 6, 2009

PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA

GS.TS. HỖ VĂN VĨNH

Đổi mới tư duy lý luận làm cơ sở cho đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trong nông nghiệp và kinh tế nông thôn được đánh dấu bằng những mốc lịch sử quan trọng, đó là Chỉ thị 100 CT/TW ngày 13-1-1981 của Ban Bí thư Trung ương Đảng; Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị ngày 5-4-1988; sự ra đời của Luật Hợp tác xã được thông qua ngày 20-3-1996 tại Kỳ họp thứ 9 của Quốc hội khóa IX.

Thực hiện đường lối đổi mới hợp tác xã nông nghiệp của Đảng và thi hành Luật Hợp tác xã, tất cả các địa phương đều đã tập trung chỉ đạo chuyển đổi hợp tác xã nông nghiệp kiểu cũ sang hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới cho phù hợp với quy luật kinh tế thị trường và đặc điểm của sản xuất nông nghiệp dựa trên quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của hộ nông dân. Xuất phát từ đặc điểm kinh tế - xã hội của từng địa phương, sự vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới hợp tác xã nông nghiệp của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, việc chuyển đổi hợp tác xã nông nghiệp đã diễn ra hết sức đa dạng và phong phú. Đáng chú ý là đã xuất hiện nhiều mô hình hợp tác xã nông nghiệp làm ăn có hiệu quả, đáp ứng nguyện vọng và lợi ích của hộ nông dân trong quá trình chuyển đổi sang sản xuất nông nghiệp hàng hóa. Có thể khái quát thành hai cách làm chủ yếu: chuyển đổi hợp tác xã nông nghiệp kiểu cũ sang hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới; thành lập mới hợp tác xã nông nghiệp.

- Trong cách thứ nhất, chuyển đổi hợp tác xã nông nghiệp kiểu cũ thành hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới về cơ bản đã giữ nguyên hợp tác xã nông nghiệp cũ, nhưng đổi mới phương thức tổ chức, quản lý hợp tác xã theo Luật Hợp tác xã bao gồm các nội dung: kiểm kê, xử lý tài sản, công nợ của hợp tác xã cũ, đăng ký lại danh sách xã viên, xây dựng Điều lệ Hợp tác xã, tổ chức lại hệ thống dịch vụ và bộ máy quản lý của hợp tác xã nông nghiệp. Cách làm này khá phổ biến ở các tỉnh phía Bắc và Bắc Trung Bộ. Chẳng hạn, ở tỉnh Thái Bình sau chuyển đổi theo Luật Hợp tác xã đã có 313 hợp tác xã nông nghiệp được chuyển đổi trong số 320 hợp tác xã nông nghiệp cũ với số hộ nông dân tham gia hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới đạt 98,9% tổng số hộ của cả tỉnh; ở tỉnh Hải Dương từ năm 1997 đến năm 2000 đã có 379/382 hợp tác xã thực hiện chuyển đổi, đạt 99,2% số hợp tác xã nông nghiệp và hầu hết số hộ nông dân đều tham gia hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới; ở tỉnh Nam Định có 445 ngàn hộ nông dân tham gia vào 313 hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới, chiếm gần 100% số hộ nông dân của cả tỉnh. Theo kết quả Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2001 của Tổng cục Thống kê, cả nước có 7.171 hợp tác xã trong nông nghiệp, trong đó riêng vùng đồng bằng sông Hồng có 3.311 hợp tác xã, chiếm tới 46% số hợp tác xã nông nghiệp cả nước, còn ở 5 tỉnh Bắc Trung Bộ bao gồm từ Thanh Hóa đến Thừa Thiên - Huế có 1.114 hợp tác xã, chiếm 15,5% số hợp tác xã nông nghiệp của cả nước.

Cách chuyển đổi này có nhiều hạn chế, vẫn mang nặng tính hình thức; tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế lợi ích chưa có sự đổi mới căn bản, chưa tạo được động lực phát triển mới và gắn bó lợi ích của các hộ xã viên. Cụ thể số hộ nông dân tham gia hợp tác xã đông vì chủ yếu vẫn theo cách "đánh trống ghi tên", nên họ không góp vốn hoặc góp chiếu lệ, nơi thấp chỉ 30 - 50 ngàn đồng, nơi cao cũng chỉ trên dưới 100 ngàn đồng/mỗi hộ, bản thân xã viên không có động lực kinh tế, hợp tác xã nông nghiệp thì không có nhiều vốn để hoạt động kinh doanh.

- Cách làm thứ hai, thành lập hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới bao gồm thành lập hợp tác xã nông nghiệp mới hoàn toàn và thành lập hợp tác xã nông nghiệp mới trên cơ sở giải thể hợp tác xã nông nghiệp kiểu cũ. Đây là cách làm chủ yếu ở các tỉnh phía Nam bao gồm vùng Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Cách làm này có ưu điểm chính là xuất phát từ nhu cầu phát triển kinh tế hộ, bảo đảm tính tự chủ cao, nên nông dân tự nguyện góp vốn lớn để đáp ứng nhu cầu vốn hoạt động kinh doanh của hợp tác xã. Phương thức hoạt động cũng gắn được quyền lợi và trách nhiệm của từng hộ xã viên đối với hợp tác xã nông nghiệp. Những người sáng lập thường có trình độ chuyên môn kỹ thuật và trình độ kinh doanh và trở thành cán bộ quản lý hợp tác xã năng động, sáng tạo, thích ứng được với cơ chế thị trường, phát triển vững chắc và có hiệu quả.

Ở các tỉnh phía Bắc, cũng xuất hiện một số hợp tác xã nông nghiệp thành lập mới theo đúng nguyên tắc của Luật Hợp tác xã thì kinh doanh phát triển và có hiệu quả.

Hạn chế cơ bản của cách làm này, trước hết, có lẽ ở số lượng hợp tác xã và số hộ nông dân tham gia, số hộ nghèo tham gia hợp tác xã nông nghiệp còn quá ít. Chẳng hạn, tại xã Xuân Tây, Xuân Lộc, Đồng Nai có trên 3.000 hộ nông dân, nhưng chỉ có 1 hợp tác xã nông nghiệp với 21 xã viên. Điều này không phù hợp với bản chất và mục đích của hợp tác xã nông nghiệp là nơi để người nghèo, người ít có những lợi thế có điều kiện để giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau cùng góp sức, góp của thúc đẩy sản xuất hàng hóa, đẩy mạnh phát triển sản xuất kinh doanh, thoát khỏi đói nghèo và từng bước vươn lên khá và giàu.

Điều đó hạn chế mở rộng kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, nhất là đối với các tỉnh Nam Bộ, nơi có điều kiện và truyền thống phát triển nông nghiệp hàng hóa, nhưng số hợp tác xã nông nghiệp và số hộ nông dân tham gia hợp tác xã nông nghiệp còn quá ít. Theo kết quả Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2001 của Tổng cục Thống kê, vùng Đông Nam Bộ tổng số có 191 hợp tác xã nông nghiệp, trong đó thành lập mới là 45 hợp tác xã; vùng đồng bằng sông Cửu Long có 424 hợp tác xã nông nghiệp, trong đó có 383 hợp tác xã mới thành lập; số lao động trong hợp tác xã nông nghiệp ở hai vùng này lại quá ít: Đông Nam Bộ có 6.978 người, bình quân 36 người/hợp tác xã, đồng bằng sông Cửu Long có 6.355 người, bình quân 15 người/hợp tác xã.

Theo chúng tôi, hợp tác xã nông nghiệp là tổ chức kinh tế do những người nông dân tự nguyện thành lập nhằm mục đích trợ giúp các hoạt động nông nghiệp của họ thông qua việc cung cấp các dịch vụ giá rẻ do lợi thế về quy mô và phân công chuyên môn hóa lao động, dựa trên nền tảng kinh tế của hộ nông dân, mà đa số họ là những người yếu thế về trình độ học vấn, trình độ kỹ thuật - công nghệ và khả năng hạn hẹp về vốn, theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi và cần có sự hỗ trợ của Nhà nước. Đây là nét khác cơ bản với kiểu góp vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn hay công ty cổ phần.

Mở rộng các hình thức hợp tác trong nông nghiệp nói chung và xây dựng hợp tác xã nông nghiệp nói riêng là một bộ phận của xây dựng quan hệ sản xuất mới bao gồm cả quan hệ sở hữu và hình thức tổ sản xuất và quản lý. Trong đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn hiện nay, chúng ta thực hiện chính sách đa dạng hóa hình thức sở hữu và tổ chức sản xuất - quản lý với mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái. Do đó, trong nông nghiệp, nông thôn tồn tại nhiều thành phần kinh tế có quyền bình đẳng trước pháp luật, cùng hợp tác và cạnh tranh với nhau. Phát triển các loại hình tổ chức sản xuất nông nghiệp đa dạng, từ hộ nông dân tự chủ đến hợp tác xã, kinh tế trang trại, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp ngoài nhà nước, kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài... trong tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội: sản xuất, dịch vụ, chế biến nông sản, thương mại... các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế muốn tồn tại và phát triển đều phải có sự hợp tác với nhau theo quan hệ thị trường.

Khác với trước đây, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ngày nay được quan niệm rộng hơn, toàn diện hơn, chuyển đổi về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất gắn với thị trường, xây dựng đời sống văn hóa, tinh thần ở nông thôn theo hướng văn minh, hiện đại, bao gồm thủy lợi hóa, cơ khí hóa, điện khí hóa, sinh học hóa, thị trường hóa, hợp tác hóa, nhân văn hóa... Nghĩa là, chuyển đổi nền kinh tế chủ yếu dựa trên cơ sở nông nghiệp sang nền kinh tế chủ yếu dựa trên cơ sở công nghiệp và dịch vụ, xét cả về tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động với phương thức và trình độ cao về phân công và hợp tác lao động xã hội.

Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và ưu tiên công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, phát triển hợp tác xã nông nghiệp vừa là nội dung quan trọng, vừa là tiền đề của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mối quan hệ tác động qua lại giữa hợp tác xã nông nghiệp và công nghiệp hóa, hiện đại hóa thể hiện trên những nét sau đây:

Thứ nhất: Phát triển hợp tác xã nông nghiệp sẽ tạo nên sự phân công lao động và tổ chức lao động mới, vừa tạo ra năng suất lao động và năng suất nông nghiệp cao, vừa tạo điều kiện để chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang các ngành công nghiệp, dịch vụ, thúc đẩy phát triển công nghiệp, dịch vụ trong nông thôn. Đó cũng là một nội dung quan trọng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay.

Thứ hai: Nhờ phát triển hợp tác xã nông nghiệp với sự góp vốn của hộ xã viên thỏa đáng mà hợp tác xã nông nghiệp đủ sức hoạt động kinh doanh và đầu tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, kết cấu hạ tầng và có điều kiện ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất. Đây cũng là một nội dung quan trọng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.

Thứ ba: Nhờ phát triển hợp tác xã nông nghiệp mới tạo ra quy mô sản xuất hàng hóa lớn thích ứng với nhu cầu của thị trường, hạn chế và khắc phục dần tình trạng sản xuất nhỏ, phân tán, manh mún, mang nặng tính tự cung, tự cấp của kinh tế hộ còn đang phổ biến ở nước ta hiện nay.

Thứ tư: Hợp tác xã nông nghiệp là một tổ chức kinh tế của nông dân đồng thời là một trường học thực tế để nâng cao trình độ của người lao động và đào tạo, rèn luyện những cán bộ quản trị kinh doanh đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Thứ năm: Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa vừa đặt ra yêu cầu của hợp tác hóa nói chung và phát triển hợp tác xã nông nghiệp nói riêng, vừa tạo điều kiện để thúc đẩy và hỗ trợ hợp tác xã nông nghiệp, nhất là cung cấp phương tiện kỹ thuật và công nghệ cho hợp tác xã nông nghiệp để tiến hành sản xuất kinh doanh có hiệu quả.

Sự phát triển hợp tác xã nông nghiệp trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta đang gặp nhiều mâu thuẫn và khó khăn, trước hết là đang đứng trước một nghịch lý giữa lý luận và thực tiễn. Về lý luận, ai cũng thấy hợp tác nói chung và hợp tác xã nông nghiệp là cần thiết và có lợi cho chính người nông dân, được Đảng và Nhà nước quan tâm (có Nghị quyết số 13-NQ/TW của Hội Nghị Trung ương 5 (khóa IX) về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể và Quốc hội đã có Luật Hợp tác xã năm 1996 và Luật Hợp tác xã sửa đổi bổ sung năm 2003), nhưng trên thực tế việc chuyển đổi hợp tác xã nông nghiệp vẫn mang nặng tính hình thức, phát triển chậm chạp và số hộ nông dân thực sự tham gia còn quá ít. Theo Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2001, số lao động thực sự làm việc trong các hợp tác xã nông nghiệp chỉ bằng 0,68% tổng số lao động hiện có trong nông thôn. Tuyệt đại đa số lao động nông nghiệp và nông thôn làm việc trong các hộ nông dân tự chủ, tuy vẫn được hợp tác xã cung ứng các dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp, nhưng không là xã viên và do đó thiếu mối quan hệ gắn bó giữa hộ tự chủ với hợp tác xã. Họ có thể sử dụng hoặc không sử dụng dịch vụ của hợp tác xã là tùy thuộc vào giá cả và tinh thần phục vụ. Như vậy, hợp tác xã nông nghiệp chưa tạo được một sức hút mạnh mẽ các hộ nông dân tham gia hợp tác. Trước thực trạng đó, bước đầu, xin được nêu một số nguyên nhân chủ yếu:

1 - Các hộ nông dân chưa có nhu cầu và động lực tham gia hợp tác. Do đất chật người đông, lao động nông nghiệp dư thừa nhiều, thời gian nông nhàn lớn, nhiều hộ nông dân chưa có nhu cầu hợp tác, cộng với tâm lý sợ mất tự chủ trong sản xuất kinh doanh và tâm lý mặc cảm, định kiến và hoài nghi đối với mô hình hợp tác xã nông nghiệp kiểu cũ, trong khi nguyên tắc tham gia hợp tác xã là tự nguyện, dân chủ, hộ nông dân chưa thấy rõ lợi ích kinh tế nên chưa có động lực vào hợp tác xã nông nghiệp.

2 - Bản thân hợp tác xã nông nghiệp hoạt động kinh doanh còn nhiều hạn chế, chưa thích ứng với sản xuất hàng hóa và chưa nêu gương về mô hình tổ chức sản xuất tiên tiến và hiệu quả. Ngoại trừ một số mô hình hợp tác xã nông nghiệp tiên tiến, năng động và kinh doanh có hiệu quả, đại bộ phận hợp tác xã nông nghiệp còn lại vẫn hoạt động theo nếp cũ, chuyển sang làm dịch vụ được chăng hay chớ, chưa quan tâm nhiều đến mục tiêu hiệu quả kinh tế, mà nặng về mặt chính trị - xã hội.

3 - Còn thiếu những cán bộ cốt cán quản lý hợp tác xã nông nghiệp có trình độ, kinh nghiệm và có tâm huyết vì lợi ích của hợp tác xã và xã viên. Chủ nhiệm hợp tác xã, ban quản trị chưa được tuyển chọn, rèn luyện, bồi dưỡng phù hợp với điều kiện quản lý kinh doanh nông nghiệp trong kinh tế thị trường.

4 - Sự chỉ đạo chuyển đổi và phát triển hợp tác xã nông nghiệp còn nhiều mặt hạn chế cả về tuyên truyền giáo dục, tổ chức, cơ chế chính sách, điều hành cụ thể đối với phong trào hợp tác và hợp tác xã nông nghiệp. Chính quyền địa phương nhiều nơi vẫn duy trì hợp tác xã nông nghiệp một cách hình thức với nhiều lý do khác nhau và do đó tạo nên sự trì trệ đối với phát triển hợp tác xã nông nghiệp.

Bởi vậy, để hợp tác xã nông nghiệp phát triển có hiệu quả, phát huy vai trò hỗ trợ đắc lực cho kinh tế hộ và trang trại, gắn với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn cần thực hiện một số giải pháp sau đây:

Một là: Tiếp tục đổi mới nhận thức về hợp tác xã nông nghiệp, nhất là nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò và tác dụng của hợp tác xã nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và đưa nông nghiệp nước ta phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, trên cơ sở tuân thủ nguyên tắc tổ chức và quản lý: tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và có sự hỗ trợ của Nhà nước, phù hợp nguyên tắc của Liên minh các hợp tác xã quốc tế nhằm thích ứng với quá trình hội nhập quốc tế. Từ thay đổi nhận thức về hợp tác xã nông nghiệp cần sớm khắc phục những mặc cảm, định kiến với mô hình hợp tác xã nông nghiệp kiểu cũ và đổi mới cơ chế chính sách, chỉ đạo thực tiễn phát triển hợp tác xã nông nghiệp trong mối liên kết hợp tác với các thành phần kinh tế và các loại hình tổ chức sản xuất khác nhằm mục tiêu hiệu quả kinh tế - xã hội.

Hai là: Phát triển kinh tế hộ nông dân theo hướng sản xuất hàng hóa, khắc phục tình trạng manh mún, khép kín, tự cấp tự túc của kinh tế hộ nhằm tạo nhu cầu và động lực tham gia hợp tác xã nông nghiệp của kinh tế hộ. Trên cơ sở tích tụ, tập trung ruộng đất cho sản xuất nông nghiệp hàng hóa mà phân công lao động xã hội, chuyển dịch lao động nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ theo phương châm "Ai giỏi nghề gì làm nghề đó". Nhà nước có chính sách tài chính - tín dụng, chính sách khoa học - công nghệ và khuyến nông, chính sách đầu tư, chính sách thị trường, chính sách lao động... để hỗ trợ cho kinh tế hộ nông dân dần chuyển sang sản xuất hàng hóa bền vững và có hiệu quả.

Ba là: Coi trọng công tác cán bộ cho hợp tác xã nông nghiệp. Thực tế cho thấy rằng, cán bộ chủ chốt của hợp tác xã nông nghiệp, trước hết là chủ nhiệm hợp tác xã có vai trò quyết định đối với sự thành bại của hợp tác xã nông nghiệp. Do đó, việc lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng cũng như cơ chế chính sách đối với chủ nhiệm hợp tác xã và ban quản trị phải được coi trọng và đổi mới cơ bản theo nguyên tắc lấy mục tiêu hiệu quả kinh doanh của hợp tác xã làm tiêu chí xem xét hàng đầu.

Bốn là: Mở rộng liên kết hợp tác giữa hợp tác xã nông nghiệp với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Đặc điểm của kinh tế thị trường là cạnh tranh và hợp tác, do đó từng hợp tác xã nông nghiệp không thể khép kín mà phải mở rộng hợp tác với các hợp tác xã nông nghiệp khác, chủ động tìm kiếm sự hợp tác và hỗ trợ của các doanh nghiệp lớn để nâng cao trình độ kinh doanh và sức cạnh tranh của mình.

Năm là: Tiếp tục đổi mới quản lý nhà nước đối với kinh tế hợp tác và hợp tác xã nông nghiệp, trước hết là triển khai tổ chức Luật Hợp tác xã, đưa Luật Hợp tác xã đi vào cuộc sống. Nhà nước có chức năng quản lý và hỗ trợ hợp tác xã nông nghiệp chủ yếu bằng cơ chế, chính sách và hệ thống tổ chức quản lý. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã thành lập Cục hợp tác xã là một bước tiến quan trọng. Vấn đề đặt ra là thực hiện đúng chức năng và xây dựng hệ thống tổ chức quản lý hợp tác xã nông nghiệp từ trung ương đến cơ sở, nhất là củng cố Liên minh hợp tác xã sao cho thiết thực và có hiệu quả, tránh hành chính hóa để chuyển mạnh sang các hoạt động dịch vụ, hỗ trợ các hợp tác xã trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.

SOURCE: TẠP CHÍ CỘNG SẢN SỐ 81 NĂM 2005