Thứ Hai, 28 tháng 7, 2008

ĐA DẠNG HÓA CÁC HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ: NHỮNG ĐIỀU CẦN TRÁNH

image NGUYỄN MINH PHONG

Việc đa dạng hoá đầu tư của các tập đoàn và doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp nhà nước là xu thế tất yếu, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn phát triển kinh doanh, từ sự xuất hiện cung cầu mới, từ xu hướng phát triển ngành và sự phát triển của khoa học công nghệ, cũng như từ sự gia tăng áp lực cạnh tranh giữa các đối thủ tiềm năng, buộc các doanh nghiệp phải bám sát thị trường và phải nhạy bén, năng động nắm bắt những thời cơ mới cho phép không ngừng mở rộng quy mô, tạo ra lợi nhuận cao và giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh.

1. Sự cần thiết và tác động hai mặt của đa dạng hóa đầu tư

Trong nền kinh tế hiện đại, đa dạng hoá đầu tư đã, đang và sẽ tiếp tục trở thành xu hướng phát triển ngày càng đậm nét của các tập đoàn kinh tế ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

Trên thực tế, Tập đoàn Bưu chính Viễn thông (VNPT), ngoài các sản phẩm, dịch vụ liên quan tới viễn thông và công nghệ thông tin, còn mở rộng sang lĩnh vực dịch vụ quảng cáo, kinh doanh bất động sản, cho thuê văn phòng; Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) ngoài lĩnh vực hoạt động truyền thống là sản xuất kinh doanh điện năng, viễn thông công cộng và cơ khí điện lực, còn đầu tư mở rộng sang lĩnh vực bất động sản, lĩnh vực tài chính - ngân hàng; Tập đoàn Cao su Việt Nam (VRG) cũng không bó khuôn trong lĩnh vực cao su, mà còn đầu tư vào ngành cơ khí, quản lý khai thác cảng biển, vận tải, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng, bất động sản, dịch vụ khách sạn, du lịch nội địa, quốc tế; Tập đoàn Vinashin ngoài lĩnh vực chuyên sâu của mình, cũng đã đầu tư vào dịch vụ vận tải biển, thuỷ điện, tài chính, chế tạo cơ khí...

Theo Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, tính đến cuối năm 2007, tổng số vốn mà các tập đoàn, tổng công ty nhà nước đầu tư vào các lĩnh vực tài chính, chứng khoán, bất động sản, ngân hàng…, lên tới trên 15.000 tỉ đồng, trong đó chỉ tính riêng lĩnh vực chứng khoán là 1.061 tỉ đồng.

Xu hướng đa dạng hoá đầu tư, kể cả vào những lĩnh vực phi truyền thống, của các tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước, được lý giải như sau:

Thứ nhất, cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt khi làn sóng đầu tư vào Việt Nam đang ngày càng tăng mạnh, nhiều ngành nghề mới được hình thành, nhiều lĩnh vực có tiềm năng chưa được khai thác triệt để, rào cản gia nhập ngành chưa sâu…, mang đến nhiều tiềm năng, cơ hội, đồng thời đặt ra nhiều thách thức lớn và mới cho các doanh nghiệp ở cả thị trường trong nước, và thị trường quốc tế. Cơ hội đó cho phép các doanh nghiệp tham gia và khẳng định mình trong các lĩnh vực đầu tư mới. Theo thống kê của Bộ Tài chính, hoạt động sản xuất, kinh doanh đa ngành, đa nghề đã phá thế "độc canh" của nhiều tập đoàn, tổng công ty, góp phần tạo đủ việc làm thường xuyên cho hơn 880 nghìn lao động, với mức thu nhập bình quân từ 2,5 đến 4,3 triệu đồng/người/tháng, tăng 13% so với năm 2006. Tính đến hết năm 2007, tổng giá trị tài sản của 70 tập đoàn kinh tế đạt hơn 803 nghìn tỉ đồng, tăng 16% so với năm 2006. Vốn chủ sở hữu là 323 nghìn tỉ đồng, tăng 13%; tổng doanh thu đạt 498 nghìn tỉ đồng, tăng 23%; tổng lợi nhuận 62 nghìn tỉ đồng, tăng 13,5%; tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu đạt 19%; nộp ngân sách nhà nước gần 110 nghìn tỉ đồng. Số vốn đầu tư ra bên ngoài của các tập đoàn, tổng công ty là gần 117.000 tỉ đồng. Có 28/70 tổng công ty có những hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, ngân hàng, bảo hiểm… với giá trị hơn 23.300 tỉ đồng.

Thứ hai, sau khi thực hiện cổ phần hoá và sắp xếp lại, các doanh nghiệp thường gặp nhiều khó khăn mới trong việc khẳng định thương hiệu, nên phải không ngừng mở rộng quy mô, đa dạng hoá hoạt động, sản phẩm, khai thác đối tác và thị trường có triển vọng, nhằm nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh của mình.

Thứ ba, trong bối cảnh thị trường thay đổi rất nhanh, việc kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực là một trong những chiến lược, định hướng lâu dài cho bất kỳ một doanh nghiệp nào, kể cả những doanh nghiệp lớn chuyên sâu trong lĩnh vực truyền thống, vì chúng cho phép doanh nghiệp năng động nắm bắt và thực hiện những hoạt động mới, giúp doanh nghiệp phát huy các nguồn lực bên trong, huy động nguồn lực bên ngoài, giảm thiểu rủi ro cho doanh nghiệp theo kiểu “không bỏ hết trứng vào một giỏ”, góp phần phát triển thị trường, tạo thế, tạo đà phát triển bền vững cho doanh nghiệp.

Có thể nói, việc đa dạng hoá đầu tư của các tập đoàn và doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp nhà nước là xu thế tất yếu, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn phát triển kinh doanh, từ sự xuất hiện cung cầu mới, từ xu hướng phát triển ngành và sự phát triển của khoa học công nghệ, cũng như từ sự gia tăng áp lực cạnh tranh giữa các đối thủ tiềm năng, buộc các doanh nghiệp phải bám sát thị trường và phải nhạy bén, năng động nắm bắt những thời cơ mới cho phép không ngừng mở rộng quy mô, tạo ra lợi nhuận cao và giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh.

Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, việc hoạt động đa ngành nghề, lĩnh vực cũng có tính hai mặt của nó: một mặt, nếu doanh nghiệp đi đúng hướng và đầu tư thành công sẽ giúp doanh nghiệp đạt được những mục tiêu như đã nêu trên; mặt khác, nếu “chệch hướng” hoặc đầu tư không hiệu quả có thể làm suy sụp hình ảnh của doanh nghiệp, thậm chí đánh mất thương hiệu và gây ra những thiệt hại to lớn khó lường cho doanh nghiệp.

Những tác động tiêu cực của đa dạng hoá đầu tư xuất phát từ một số nguyên nhân chủ yếu sau.

Khi doanh nghiệp đầu tư đa ngành, đa nghề, ít nhiều bản thân doanh nghiệp đánh mất đi lợi thế cạnh tranh, lợi thế so sánh của mình, rất dễ mắc sai lầm do sự phân tán các nguồn lực và thiếu kinh nghiệm của bộ máy quản lý. Bên cạnh đó, việc kiểm soát vốn vào hoạt động đa lĩnh vực thường rất phức tạp, nếu kiểm soát không tốt thì sự thất thoát, lãng phí và khả năng đổ vỡ tài chính là những nguy cơ có thực. Đặc biệt, cần thấy rõ rằng, với khả năng tài chính có hạn, việc đầu tư vốn dàn trải sẽ buộc doanh nghiệp phải tìm đến nguồn vốn mới với những điều khoản thương mại ngặt nghèo, dễ sa vào “bẫy nợ nần”.

Sự đa dạng hoá đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước còn là một nguyên nhân trực tiếp góp phần làm tăng áp lực lạm phát ở Việt Nam, cả lạm phát tiền tệ, lạm phát cơ cấu và lạm phát chi phí đẩy. Bởi vì:

Thứ nhất, cơ cấu đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước thường tập trung vào các lĩnh vực kết cấu hạ tầng, không trực tiếp tạo ra hàng hoá và làm tăng chênh lệch cung - cầu, tức làm tăng lạm phát cơ cấu.

Thứ hai, hiệu quả kinh doanh và đầu tư của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước và doanh nghiệp nhà nước nói chung cả ở trên thế giới, cũng như ở Việt Nam, đều không cao, và thường là thấp hơn so với hiệu quả đầu tư và kinh doanh tương tự do các nhà đầu tư nước ngoài hoặc tư nhân trong nước thực hiện. Thông tin chính thức cho thấy tỷ lệ ICOR của khu vực doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện ở mức hơn 8, so với mức trung bình của xã hội là 4,2-4,4. Báo cáo kiểm toán năm 2007 do Kiểm toán Nhà nước công bố ngày 1-7-2008 cho thấy, tổng số nợ phải thu của các doanh nghiệp được kiểm toán đến thời điểm 31-12-2006 là rất lớn, 25.102 tỉ đồng, chiếm 14,24% tổng tài sản và bằng 64% vốn chủ sở hữu. Tương tự, tổng số nợ phải trả là 65.799 tỉ đồng, chiếm 62% tổng nguồn vốn và chiếm 171,2% tổng vốn chủ sở hữu.

Thứ ba, do các doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng dư nợ tín dụng và đầu tư xã hội, cụ thể là hơn 50% vốn đầu tư nhà nước, 70% tổng dư nợ quốc gia và hơn 80% tổng dư nợ tín dụng, lạm phát sẽ có nguy cơ gia tăng nếu không kiểm soát và ngăn chặn kịp thời những hiện tượng tiêu cực có thể xảy ra trong việc vay và cho vay vốn, đầu tư chéo, đầu tư đa ngành mang tính đầu cơ, trục lợi cá nhân, dẫn tới sự lãng phí các nguồn lực quốc gia…

2. Để giảm thiểu rủi ro do đa dạng hoá đầu tư

Để giảm thiểu rủi ro, tránh những tác động mặt trái trong đầu tư đa ngành, đa lĩnh vực như trên, thực tiễn kinh doanh ngày càng cho thấy các doanh nghiệp cần bám sát các nguyên tắc sau:

- Bám sát thị trường, “biết người, biết ta”. Doanh nghiệp khi tiến sang lĩnh vực mới nên có sự chuẩn bị kỹ càng, phân tích chiến lược toàn diện, dự báo sát các triển vọng thị trường trong dài hạn, trung hạn và ngắn hạn, để hình thành và triển khai dự án đầu tư mới đúng nơi, đúng lúc…

- Tránh đầu tư theo kiểu đám đông, phong trào và đặc biệt, cần tránh chạy theo tư tưởng đầu cơ, chỉ nhìn thấy lợi nhuận “nóng” trước mắt, mà quên mất chuyên môn và mục tiêu chính của mình.

- Bám sát sở trường và đầu tư đa ngành có trọng tâm. Doanh nghiệp nên đa dạng hoá một cách chuyên sâu, tạo sự tương hỗ, liên kết giữa các sản phẩm và dự án đầu tư mới và cũ trong quá trình đa dạng hoá và phát triển của mình. Những ngành, sản phẩm đa dạng mới mà doanh nghiệp lựa chọn phải phù hợp hoặc có tính bổ sung cao, thiết thực với năng lực và thị trường hiện tại, sẵn có của bản thân doanh nghiệp, không nên quá xa rời sở trường vốn có của mình, đồng thời phù hợp với triển vọng trung và dài hạn của thị trường trong nước và thế giới.

- Chuẩn bị kỹ nguồn vốn huy động mang tính an toàn cao, rẻ, để tránh sức ép trả nợ trong thời kỳ đầu dự án đầu tư mới chưa sinh lợi. Đặc biệt, doanh nghiệp cần tỉnh táo trước “bẫy nợ” hoặc sự lừa đảo và các dạng tội phạm tài chính ngày càng đa dạng và tinh vi trên thương trường.

- Trọng dụng chuyên gia, người tài cả về quản lý và công nghệ trong lĩnh vực đầu tư mới còn nhiều mới mẻ, bỡ ngỡ đối với ê kíp cán bộ cũ. Nói cách khác, người nào việc ấy, không thể dùng cán bộ và chuyên gia cũ cho một lĩnh vực đầu tư kinh doanh mới, tựa như không thể dùng thợ cơ khí để chế tạo đồ mộc, hay thợ hàn để chế tạo phần mềm trong công nghệ thông tin. Nếu phương án nhân sự không khớp với phương án tài chính và tiến độ triển khai dự án, thì độ thành công của dự án đa dạng hoá đầu tư thật là mong manh, thậm chí ngoài tầm kiểm soát của bất kỳ doanh nghiệp nào…

Từ thực tiễn trên đây, đặc biệt, trước sức ép của thị trường và trong khuôn khổ, lộ trình sắp xếp, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, đã đến lúc các doanh nghiệp nhà nước phải đẩy mạnh quá trình tái cấu trúc và thực hiện những cải tổ mạnh mẽ hơn nữa trong cơ chế quản lý nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của mình. Đây cũng là hành động thiết thực kiềm chế lạm phát và bảo đảm sự phát triển bền vững của cả khu vực doanh nghiệp và nền kinh tế./.

SOURCE: TẠP CHÍ CỘNG SẢN SỐ 14 (158) NĂM 2008

Thứ Sáu, 25 tháng 7, 2008

PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG NHÀ NƯỚC Ở CỘNG HÒA LIÊN BANG ĐỨC

PGS.TS. NGUYÊN NHƯ PHÁT & TS. BÙI NGUYÊN KHÁNH - Viện Nhà nước và Pháp luật

1. Bồi thường Nhà nước – Sự bảo hộ pháp lý thứ phát

“Pháp luật về bồi thường Nhà nước“ là bộ phận pháp luật trong hệ thống pháp luật của CHLB Đức quy định về một loại hình trách nhiệm pháp lý đặc biệt: trách nhiệm của chủ thể thừa hành công vụ đối với các hành vi công quyền của mình trong quá trình thực hiện công vụ. Nói cách khác, loại hình trách nhiệm pháp lý này được áp dụng đối với hành vi công quyền (hành động hoặc không hành động) trên nền tảng pháp lý của Luật công. Mặc dù các chủ thể của hành vi công quyền phụng sự quốc gia theo những hình thức pháp lý khác với hình thức pháp lý của Luật dân sự, song hậu quả pháp lý của những hành vi này lại được xem xét dưới các hình thức trách nhiệm pháp lý của dân luật. Cụ thể là, nó cũng trở thành đối tượng của quyền khởi kiện theo dân luật như những vi phạm hợp đồng, ngoài hợp đồng và các hình thức khác theo quy định của pháp luật.

Do được hình thành trên nền tảng của các hành vi công quyền, nên pháp luật về bồi thường Nhà nước được đặt trong mối liên hệ chặt chẽ với các hình thức bảo vệ pháp lý của công dân trước sự xâm hại của các hành vi công quyền. Trong quá trình thực thi quyền lực Nhà nước, hành vi công quyền luôn tiềm ẩn một nguy cơ – xâm hại các quyền của công dân – cái luôn được Luật cơ bản (Hiến pháp liên bang)[1]  của CHLB

Đức bảo hộ thông qua việc ghi nhận khả năng tố quyền theo Điều 19 khoản 4. Sự bảo hộ pháp lý này của Hiến pháp liên bang đã mở ra cho công dân Đức một khả năng, yêu cầu Tòa án xem xét lại tính hợp pháp của hành vi công quyền mà họ cho là đã vi phạm các quyền hợp pháp của họ (bảo vệ pháp lý nguyên phát- primorer Rechtsschutz). Tuy nhiên, sự bảo hộ pháp lý này không tồn tại một cách đơn lẻ. Nó được bảo vệ bổ sung thông qua pháp luật về bồi thường Nhà nước – bộ phận pháp luật đem lại một khả năng bổ sung là yêu cầu bồi thường đối với các hành vi công quyền xâm hại đến quyền công dân (bảo vệ pháp lý thứ phát- sekundọrer Rechtsschutz).

Ở CHLB Đức, pháp luật về bồi thường Nhà nước là một chế định pháp luật hết sức phức tạp và thiếu vắng tính hệ thống. Bên cạnh những quy phạm pháp luật quy định về trách nhiệm bồi thường Nhà nước trong Hiến pháp và các đạo luật chuyên ngành như: Hiến pháp liên bang (Điều 3, 14 và 34), Bộ luật Dân sự (Điều 839 – Trách nhiệm khi vi phạm nghĩa vụ công vụ), Luật Bồi thường đối với các biện pháp hình sự (Điều 2 đến Điều 7), Luật Phòng, chống lây nhiễm (Điều 59, 60 và 61), Luật Tố tụng hành chính (Chương 6)...  thì hình thức tồn tại chủ yếu của pháp luật về bồi thường Nhà nước đến nay vẫn là án lệ. Theo đó, cơ sở pháp lý cho các quyền khởi kiện đã được tập hợp hóa thành các nhóm quyền khởi kiện. Nền tảng, phạm vi của các quyển khởi kiện, các quy định đơn lẻ hoặc nội dung của của pháp luật về bồi thường Nhà nước được phát triển liên tục từ các phán quyết đơn lẻ của Tòa án. Nó là kết quả của hầu hết các cân nhắc pháp lý rất thận trọng của Tòa án nhằm bảo đảm sự cân bằng giữa hai thái cực: Một mặt, xác định trách nhiệm phải được loại bỏ khỏi những toan tính tiết kiệm (ngân sách bồi thường) và phải dựa trên những tình huống của những vụ việc cụ thể, mặt khác, lại phải chú ý đến hậu quả về tài chính, cái xuất hiện thường xuyên khi công nhận quyền khởi kiện liên quan đến khả năng bồi thường từ ngân sách Nhà nước.

Tất nhiên, những biểu hiện đặc thù của án lệ trong lĩnh vực pháp luật này không thể làm người Đức hài lòng. Điều này đã thôi thúc các nhà lập pháp CHLB Đức pháp điển hóa pháp luật về bồi thường Nhà nước dưới hình thức của một đạo luật – Đạo luật Bồi thường Nhà nước của CHLB Đức ngày 26.06.1981. Tuy nhiên, điều đáng nói là, đạo luật này chưa bao giờ có cơ hội và điều kiện áp dụng trên thực tế vì nó đã bị tuyên bố là vi hiến theo phán quyết của Tòa án hiến pháp liên bang[2]. Vì những nỗ lực pháp

điển hóa trong lĩnh vực pháp luật này đến nay là không được mong đợi, nên người ta buộc phải bằng lòng với sự tồn tại của bộ phận pháp luật này dưới hình thức án lệ trong tương lai và trên thực tế vai trò của án lệ chỉ có ý nghĩa tương đối ở một số Bang của CHLB Đức – nơi mà Đạo luật về Bồi thường Nhà nước của CHDC Đức trước đây vẫn tiếp tục có hiệu lực (VD: Bang Brandenburg).

1.1. So sánh cơ sở pháp lý  phát sinh trách nhiệm bồi thường theo Luật công  và bồi thường theo Luật dân sự

Như đã trình bày trên, Luật về bồi thường Nhà nước của CHLB Đức có mối liên hệ chặt chẽ và mật thiết đối với hậu quả của các hành vi công quyền. Nó có mục tiêu xác định trách nhiệm của Nhà nước, của các thực thể theo Luật công và các chủ thể thực thi công vụ khác có hành vi xâm hại đến các quyền công dân trong quá trình thực thi quyền lực Nhà nước. Do đó, Luật về bồi thường Nhà nước được thừa nhận là một bộ phận pháp luật của Luật công.

Như vậy, “trách nhiệm bồi thường Nhà nước “là trách nhiệm pháp lý của Nhà nước, hình thành từ việc thực hiện hành vi mang tính chất công quyền, gây hậu quả bất lợi cho các cá nhân và tổ chức ngoài Nhà nước. Điều này đã cho phép chúng ta phân biệt với trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo dân luật của Nhà nước và các chủ thể thực thi quyền lực Nhà nước khác khi tham gia vào các giao lưu dân sự. Sự khác biệt này sẽ được phân tích qua sơ đồ dưới đây:

Trách nhiệm bồi thường Nhà nước theo Luật công
Cơ sở pháp lý: Hành vi công quyền

Trách nhiệm bồi thường Nhà nước theo dân luật
Cơ sở pháp lý:
Hành vi dân sự

1. Nghĩa vụ theo Luật công

1. Nghĩa vụ theo hợp đồng

2. Thực hiện công việc không có ủy quyền theo Luật công

2. Thực hiện công việc không có ủy quyền theo Luật dân sự

3. Trách nhiệm công vụ

3. Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo luật dân sự

4. Yêu cầu xóa bỏ các hậu quả pháp lý theo Luật công

4. Yêu cầu xóa bỏ các hậu quả pháp lý theo Luật tư

Mặc dù các hành vi công quyền có sự khác biệt với hành vi dân sự và việc thực hiện chúng có nguy cơ xâm hại đến lợi ích của công dân, song các yêu cầu khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại đối với các hành vi này về nguyên tắc có thể được dựa trên nền tảng của pháp luật dân sự. Đó có thể là các trường hợp nảy sinh trong quá trình mua bán tài sản (ví dụ: xác lập sở hữu đối với đất đai, xây dựng một tòa nhà hành chính hoặc mua sắm các đồ văn phòng...), bố trí nhân sự (người lao động và viên chức), hoạt động dưới hình thức một doanh nghiệp (ví dụ: môi giới mua bán và cho thuê căn hộ ở cấp xã, kinh doanh sòng bạc ở thành phố, nhà băng của Bang) hoặc nhằm đáp ứng một nhiệm vụ công nhằm cung cấp các dịch vụ thiết yếu của người dân dưới hình thức của Luật tư (ví dụ: Cung cấp điện và nước sạch thông qua một Công ty cổ phần mà ở đó chính quyền xã chiếm cổ phần chi phối).

Cần nhấn mạnh là sự phân biệt giữa các hành vi theo Luật công và các hành vi theo Luật tư trong nhiều trường hợp là không thể thực hiện được một cách rõ ràng. Để khắc phục tình trạng này, ở CHLB Đức đã xuất hiện một số lý thuyết nhằm phân định các hành vi theo Luật công và theo Luật tư. Việc ứng dụng các lý thuyết này trên thực tế là rất khó khăn vì bản thân nó đã chứng tỏ sự thiếu hụt đáng kể về độ an toàn và độ tin cậy.

Thêm vào đó, khi một hành vi của chủ thể công quyền được nhìn nhận như hành vi dân sự thì vẫn tồn tại khả năng mối liên hệ của chúng đến pháp luật về bồi thường Nhà nước trong một số trường hợp ngoại lệ nhất định[3].  ở CHLB Đức, những vấn đề

thuộc loại này sẽ được giải quyết thông qua án lệ.

1.2. Cấu trúc pháp luật về bồi thường Nhà nước của CHLB Đức

Như đã trình bày trên, do tồn tại chủ yếu dưới hình thức án lệ, nên pháp luật về bồi thường Nhà nước của CHLB Đức được hình thành trên cơ sở các  quyền khởi kiện của công dân trước sự xâm hại của các hành vi công quyền. Theo đó, trong bài viết này, pháp luật về bồi thường Nhà nước của CHLB Đức sẽ được phân tích theo các tiêu chí của quyền khởi kiện của công dân trước sự xâm hại của các hành vi công quyền trong hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp.

1.3. Đối với hành vi công quyền của cơ quan hành pháp.

1.3.1. Quyền khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại

Khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do vi phạm trách nhiệm công vụ

Cơ sở pháp lý:                Điều 839 BLDS và Điều 34 Hiến pháp

Phạm vi bồi thường 

Điều kiện khởi kiện

Hạn chế

Chủ thể chịu trách nhiệm

Đòi hỏi bồi thường

Thủ tục pháp lý

Toàn bộ thiệt hại, kể cả thu nhập (lãi) bị mất và tiền bồi thường cho thiệt hại tinh thần

1. Trách nhiệm pháp lý của công chức và người thừa hành công vụ khác
ví dụ: Người phụ trách nạo ống khói tại địa phương, người cứu nạn xe hơi
2. Hành vi thực hiện công vụ (liên tục)
Các loại hành vi theo pháp luật công
3. Vi phạm trách nhiệm công vụ
4. Trách nhiệm công vụ liên quan đến người thứ ba
5. Quan hệ nhân quả khi xảy ra thiệt hại thiệt hại tài sản)
6. Tất cả các kiểu gây lỗi
7. Bằng chứng theo cảm quan đầu tiên
8. Lỗi của tổ chức

1. Trách nhiệm phái sinh theo Điều 839 BLDS khi công chức phạm lỗi do cẩu thả
- Không áp dụng trách nhiệm phái sinh theo Điều 839 Bộ luật Dân sự: thiệt hại giao thông thông thường, vi phạm trách nhiệm đảm bảo giao thông
-Không xét: khiếu nại chống cơ quan công quyền khác và khiếu nại về bảo hiểm xã hội
-Đòi trả tiếp lương bổng
- Đòi trả bảo hiểm tư nhân
2. Không có nghĩa vụ bồi thường, nếu không kháng án (triển vọng thành công tiềm năng)
3. Người thiệt hại cùng có lỗi - Lỗi hỗn hợp

- Cơ quan, nơi người thực hiện công vụ  làm việc
- Người trao trách nhiệm công vụ

1.Không quy định hồi tố, nhưng có dự liệu đối với truờng hợp này (theo một đạo luật riêng chứ không thông qua một Quyết định hành chính).
- Chỉ khi có ủy quyền đặc biệt theo luật hay hợp đồng (Luật công chức, Luật quân nhân, Luật nghĩa vụ thay thế, )
Lý do: khả năng của cơ quan hành chính, lý do xã hội
2.Không thể tiến hành, nếu vi phạm do cẩu thả ở mức độ thấp
3. Khiếu nại khi phạm lỗi vô ý ở mức độ ít nghiêm trọng bởi doanh nghiệp tư được ủy thác để thực hiện các nhiệm vụ công

Thủ tục pháp lý theo (Điều 34, Câu thứ 3 Hiến pháp)
Tòa án cấp bang
Xem Hiến pháp Cộng hòa Weimar

1.3.2. Quyền khởi kiện (theo hợp đồng) từ các quan hệ nghĩa vụ theo Luật công

Cơ sở pháp lý:  Điều 62 câu 2 Luật Thủ tục hành chính, đặc biệt là các Điều từ 280 trở đi trong BLDS, Điều 311 khoản 2 BLDS (vi phạm nghĩa vụ tiền hợp đồng).

Phạm vi bồi thường 

Điều kiện khởi kiện

Hạn chế

Chủ thể chịu trách nhiệm

Đòi hỏi bồi thường

Thủ tục pháp lý

Bồi thường toàn bộ thiệt hại (từ Điều 249 trở đi trong BLDS)

1. Quan hệ đặc biệt theo Luật công (ví dụ: trông giữ theo Luật công, sử dụng công sở)
2.Cơ quan hành chính có hành vi được xem là bất hợp pháp và có lỗi khi vi phạm nghĩa vụ từ quan hệ nghĩa vụ theo Luật công... nhất là khi vi phạm nghĩa vụ bảo vệ tài sản và quyền lợi công dân
3.Trách nhiệm thuộc về người thừa hành

Có thể miễn trách nhiệm trong vi phạm do cẩu thả và ít nghiêm trọng

Bên vi phạm nghĩa vụ 
 

Khi vi phạm nghĩa vụ công vụ 

Theo thủ tục pháp lý của (Điều 40, khoản 2, câu 1 Quy chế tố tụng hành chính)

1.3.3. Quyền khởi kiện yêu cầu xóa bỏ hậu quả bất lợi

Cơ sở pháp lý:  Nhằm bảo vệ các quyền cơ bản, là nội dung thông thường của các quyền cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp liên bang.

Phạm vi bồi thường 

Điều kiện khởi kiện

Hạn chế

Chủ thể chịu trách nhiệm

Thủ tục pháp lý

- Khôi phục lại tình trạng ban đầu trước khi bị vi phạm

1. Sự can thiệp của công quyển (thông qua một Quyết định hoặc hành vi hành chính) vào quyền chủ thể ví dụ: Cảnh báo sai về thực phẩm
2. Kéo dài  hậu quả bất hợp pháp (không xét tính bất hợp pháp của sự vụ, chỉ xét tính bất hợp pháp của hậu quả),
3. không phụ thuộc vào lỗi của chủ thể

Mất quyền khởi kiện, nếu người bị khởi kiện:
- không thể hoàn trả hiện trạng cũ về mặt pháp lý hoặc thực tế
-quá sức chịu đựng hoặc
-nếu hiện trạng bất hợp pháp nảy sinh trên cơ sở một quyết định hành chính mà người bị thiệt hại không thể khiếu nại được hoặc
- người có liên quan bị mất quyền khiếu nại theo luật (Điều 254 BLDS).

Nhà nước hoặc thực thể được Nhà nước trao nhiệm vụ
 

Khởi kiện yêu cầu thực hiện nghĩa vụ và khiếu nại
Tòa án hành chín

1.3.4. Quyền khởi kiện yêu cầu đền bù

Trên cơ sở trưng dụng
Cơ sở pháp lý:  bảo đảm quyền sở hữu theo Điều 14 Hiến pháp liên bang.

Phạm vi bồi thường 

Điều kiện khởi kiện

Hạn chế

Chủ thể chịu trách nhiệm

Thủ tục pháp lý

- Nhằm bù đắp bằng tiền  cho thiệt hại của những nạn nhân bị can thiệp vào quyền sở hữu.
- Không bồi thường toàn bộ và không tính lãi suất
- Định hướng theo giá trị thị trường của thiệt hại

Trái với quốc hữu hóa mà nội dung của nó nhằm tước đoạt một phần hoặc toàn bộ quyền sở hữu  để hoàn tất nhiệm vụ công trên cơ sở các quy định của Luật, thì trưng dụng là sự cản trở quyền của sở hữu chủ, nó có ý nghĩa đối với những người liên quan như là nạn nhân đặc biệt và không có cơ sở  pháp lý trực tiếp
1. Sự hạn chế trực tiếp hợp pháp quyền sở hữu bởi công quyền (thông qua Quyết định hay hành vi pháp lý).
2. Sự hạn chế này đã vượt quá ngưỡng có thể chịu đựng và biến chủ sở hữu thành nạn nhân đặc biệt.

Vì là một sự can thiệp hợp pháp, nên đương sự thực tế không có khả năng khiếu nại trên cơ sở bảo vệ pháp lý nguyên phát.

Chủ thể công quyền được hưởng lợi

Tòa án dân sự / Thủ tục pháp lý chính thức (Điều 40 khoản 2 , Câu 1, 1. Altem, Quy chế tố tụng hành chính)

Trên cơ sở biện pháp tương tự trưng dụng
Cơ sở pháp lý: Điều 14 khoản 2, Điều 3 khoản 1 Hiến pháp liên bang, các quy định đặc biệt trong lĩnh vực Luật Cảnh sát (Luật về Trật tự, an toàn xã hội).

Phạm vi bồi thường 

Điều kiện khởi kiện

Hạn chế

Chủ thể chịu trách nhiệm

Thủ tục pháp lý

Toàn bộ thiệt hại, kể cả thu nhập (lãi) bị mất và tiền bồi thường cho thiệt hại tinh thần

1. Quyền sở hữu bị cản trở trực tiếp và bất hợp pháp bởi công quyền
2. Lý do công cộng (trừ khi cưỡng chế bất hợp pháp)
3. Nạn nhân đặc biệt

- Lỗi hỗn hợp
- Phải sự dụng quyền được bảo vệ pháp lý  nguyên phát

- Cơ quan, nơi người thực hiện công vụ  làm việc
- Người trao trách nhiệm công vụ


Thủ tục pháp lý theo (Điều 34, Câu thứ 3 Hiến pháp)
Tòa án cấp bang
Xem Hiến pháp Cộng hòa Weimar

1.3.5. Sự đền bù cho nạn nhân

Cơ sở pháp lý: Luật Cảnh sát của liên bang và tiểu bang, Điều 60 Luật Phòng, chống lây nhiễm, Điều 1 Luật Bồi thường đối với các biện pháp hình sự, Luật Thủ tục hành chính của Liên bang và tiểu bang, Điều 2 Bộ luật Xã hội VII (bảo hiểm tai nạn) ...

Phạm vi bồi thường 

Điều kiện khởi kiện

Hạn chế

Chủ thể chịu trách nhiệm

Thủ tục pháp lý

Toàn bộ thiệt hại, kể cả thu nhập (lãi) bị mất và tiền bồi thường cho thiệt hại tinh thần

ảnh hưởng đến giá trị nhân thân phi tài sản (tính mạng, sức khỏe, tự do...) bởi:
1. Sự can thiệp của công quyền (kể cả biện pháp hoạch định, dự phòng và xã hội của Nhà nước)
2. Sự can thiệp vì lợi ích công cộng
3. Hợp pháp cũng như bất hợp pháp
Nạn nhân đặc biệt

- Lỗi hỗn hợp

- Cơ quan, nơi người thực hiện công vụ  làm việc
- Người trao trách nhiệm công vụ


Thủ tục pháp lý theo (Điều 34, Câu thứ 3 Hiến pháp)
Tòa án cấp bang
Xem Hiến pháp Cộng hòa Weimar

1.4. Đối với hành vi công quyền của cơ quan tư pháp

Để đảm bảo tính tính độc lập của quyền lực tư pháp nói chung và sự độc lập trong hoạt động xét xử của các Thẩm phán, pháp luật về bồi thường CHLB Đức chỉ thừa nhận một trường hợp duy nhất Nhà nước phải có trách nhiệm bồi thường khi đáp ứng được hai điều kiện:

Thẩm phán có hành vi đi ngược lại nghĩa vụ công vụ trong quá trình xét xử một vụ án,
Hành vi đó đồng thời cấu thành một tội phạm  theo Luật hình sự (ví dụ: nhận hối lộ).
Trong quá trình xét xử một vụ án ở đây được hiểu là mọi quyết định làm chấm dứt một  phần hoặc toàn bộ một thủ tục tố tụng, kể cả hành vi tố tụng để đi đến quyết định. Không chỉ các Bản án, mà cả các Quyết định giải quyết vụ án (Quyết định ban hành một Quy chế tạm thời theo Điều 123 Quy chế tố tụng hành chính, Quản chế, Quyết định khẩn cấp tạm thời trong án dân sự...). Những Quyết định ấy, về thực chất có hiệu lực thi hành, vì vậy nên chỉ có thể điều chỉnh bởi những công cụ pháp lý được dự liệu của pháp luật  tố tụng. Các quyết định nói ở đây không bao hàm các Quyết định của Thẩm phán trong thủ tục thi hành án, lệnh trong tố tụng hình sự hoặc nghị quyết trong trong các thủ tục nhằm  xác định án phí hoặc ấn định giá trị tố tụng.

1.5. Đối với hành vi công quyền của cơ quan lập pháp

Nhìn một cách khái quát, pháp luật về bồi thường Nhà nước ở CHLB Đức không áp dụng với quyền lực lập pháp. Sở dĩ như vậy là vì  Điều 19, khoản 1, câu 1 Hiến pháp liên bang đã cấm sự quy định trong những trường hợp riêng biệt nên công dân  không thể trực tiếp chống lại tác động gây hại sinh ra từ hành vi lập pháp đó. Theo đó, công dân phải đợi  luật được thi hành rồi mới được khởi kiện (bảo vệ pháp lý nguyên phát).

Ngoài ra, các nghĩa vụ công vụ của các nghị sĩ không nhằm bảo vệ người thứ ba, mà ở đây các nghị sĩ phải chịu trách nhiệm trước xã hội nói chung. Do vậy, ở đây không tồn tại khả năng vi phạm nghĩa vụ công vụ.

2. Những gợi ý ban đầu khi xây dựng Luật về bồi thường Nhà nước ở Việt Nam.

21. Phạm vi của hành vi công quyền tạo nên trách nhiệm bồi thường Nhà nước.

Khái niệm hoạt động công quyền tuyệt nhiên không đồng nghĩa với một dạng hoạt động cụ thể nào trong hệ thống quyền lực nhà nước. Điều đó có nghĩa là hoạt động của Nhà nước mà có thể phái sinh trách nhiệm bồi thường chắc chắn sẽ không giới hạn ở những hoạt động của các cơ quan nhà nước trong lĩnh vực tư pháp (chủ yếu là hình sự). Theo học thuyết về phân chia quyền lực, Nhà nước được nhìn nhận thông qua ba loại quyền lực: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Như vậy, theo lý thuyết, khi thực thi cả ba loại quyền lực nhà nước đều có “nguy cơ” phát sinh bồi thường Nhà nước[4].

Yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta trong thời gian qua đã đòi hỏi chúng ta phải có những nhận thức mới về “trách nhiệm bồi thường Nhà nước“. Sự phát triển của pháp luật hiện hành đã cho thấy, trách nhiệm bồi thường Nhà nước ở Việt Nam không chỉ giới hạn ở hoạt động hành pháp và tư pháp mà còn được mở rộng sang cả hoạt động lập pháp trong một số trường hợp nhất định. Theo Điều 11 của Luật Đầu tư 2005, trách nhiệm bồi thường Nhà nước cũng phát sinh khi có sự thay đổi pháp luật, chính sách ảnh hưởng đến quyền lợi, ưu đãi của các nhà đầu tư. “Trách nhiệm bồi thường Nhà nước” cũng phát sinh trong trường hợp Nhà nước trưng mua, trưng dụng tài sản của nhà đầu tư trong trường hợp vì lý do quốc phòng, an ninh và lợi ích quốc gia.

Trong trường hợp này cần có một cơ chế tư duy pháp lý phức tạp, ở chỗ: hoạt động lập pháp không hề nhằm vào một chủ thể tác động cụ thể nào (không có một đạo luật nào áp dụng riêng cho một ai). Trong khi đó, thiệt hại hay tổn thất để được bồi thường hay đền bù lại phải được cá thể hóa. Vì vậy, vấn đề chỉ xuất hiện khi các cơ quan hành pháp thực thi pháp luật thông qua các quyết định hành chính và như thế, tổn thất hay thiệt hại lại phái sinh từ hành vi hành pháp. Như vậy, kể cả trong những trường hợp này cũng không thể khẳng định rằng, hoạt động lập pháp là đối tượng của bồi thường nhà nước.

2.1. Mức bồi thường thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường Nhà nước.

Có thể nói, việc xác định mức bồi thường trong trách nhiệm bồi thường Nhà nước vẫn tiếp tục là một thách thức đối với cơ quan hoạch định chính sách và lập pháp.
Do thiếu sự nhận dạng chính xác “tính chất công” trong trách nhiệm bồi thường Nhà nước, pháp luật hiện hành quy định cơ quan có trách nhiệm giải quyết bồi thường có thể thành lập Hội đồng tư vấn giải quyết bồi thường thiệt hại do cán bộ, công chức Nhà nước gây ra. Hội đồng tư vấn xem xét, xác định trách nhiệm dân sự của các bên, đánh giá và quyết định mức độ thiệt hại được bồi thường và phương thức bồi thường thiệt hại. Cơ chế trên tỏ ra đặc biệt không có hiệu quả, nhất là khi các nguyên tắc xác định mức bồi thường không được xác định rõ.

Cần ủng hộ mức bồi thường toàn bộ cho những thiệt hại mà người bị thiệt hại phải gánh chịu do hành vi công quyền gây ra. Theo đó, thiệt hại ở đây bao gồm cả thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tình thần mà người bị thiệt hại phải gánh chịu. Tuy nhiên, cũng cần thừa nhận một ngoại lệ của nguyên tắc này, đó là trường hợp bồi thường Nhà nước cho người bị thiệt hại theo chế độ bồi thường cho nạn nhân. Theo đó, mức bồi thường sẽ được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ấn định.

2.3. Có cần thiết hình thành một cơ quan chuyên trách giải quyết trách nhiệm bồi thường Nhà nước

Theo lý thuyết về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, người gây thiệt hại và người bị thiệt hại có thể thương lượng về mức và phương pháp bồi thường. Tuy nhiên, trong ”trách nhiệm bồi thường Nhà nước” nó có thể dẫn đến nguy cơ phân biệt đối xử và sự tùy tiện và lạm dụng của cơ quan Nhà nước trực tiếp thương lượng. Mặc dù chỉ tồn tại ở dạng nguy cơ, song nó cần phải được dự liệu và ngăn chặn trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay.

Theo đó, không nên ủng hộ việc thương lượng trong trách nhiệm bồi thường Nhà nước và rõ ràng việc hình thành một cơ quan chuyên trách phụ trách việc thương lượng là không cần thiết, đặc biệt là trong bối cảnh cải cách hành chính hiện nay. Người bị thiệt hại trong mọi trường hợp đều có quyền khởi kiện Nhà nước (chứ không phải cơ quan Nhà nước gây thiệt hại) ra Tòa án – một thiết chế chuyên nghiệp để giải quyết trách nhiệm bồi thường. Vấn đề xác định ai là người thay mặt Nhà nước với tư cách là bị đơn tại Tòa án không gắn với việc hình thành cơ quan chuyên trách riêng biệt để thực hiện việc này. Rất có thể, người đại diện cho Nhà nước là một công chức hoặc một Luật sư công – chế định chưa có nhiều cơ hội và điều kiện phát triển ở nước ta.

2.4. Cần thiết kế Luật bồi thường Nhà nước ở Việt Nam như thế nào?

Kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật của CHLB Đức đã cho thấy, cơ chế bồi thường Nhà nước vẫn có thể vận hành tốt ngay cả khi thiếu sự pháp điển hóa pháp luật. Điều này đã cho thấy, bên cạnh một đạo luật về bồi thường Nhà nước, rất cần đến vai trò của án lệ với tính cách là một nguồn luật bổ sung quan trọng trong quá trình xét xử của Tòa án.

Do được nảy sinh trên cơ sở hành vi công quyền, nên Luật Bồi thường Nhà nước phải được soạn thảo và ban hành song song với Luật công vụ. Nếu không làm vậy, hệ thống pháp luật của Việt Nam lại đứng trước nguy cơ xung đột pháp luật giữa quy định về hành vi công vụ trong Luật Bồi thường Nhà nước và hành vi công vụ trong Luật Công vụ. Đành rằng, mục tiêu của hai đạo luật này là khác nhau song chúng đều hướng đến điều chỉnh một loại hành vi đặc thù – hành vi công vụ - hành vi thực hiện quyền lực Nhà nước trên thực tế.

Điều cần nhấn mạnh là, Luật Bồi thường Nhà nước cũng cần ghi nhận quyền đòi bồi thường Nhà nước là một quyền phái sinh (Subsidiaritọt). Điều đó có nghĩa là, đây là một công cụ pháp lý cuối cùng để người dân bảo vệ quyền lợi của mình nếu như không có sự lựa chọn nào khác. Nếu có bằng chứng chứng tỏ rằng, họ có thể yêu cầu bồi thường ở các chủ thể khác (ví dụ: bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm tai nạn, bảo hiểm cháy, nổ…) thì Nhà nước sẽ không chịu trách nhiệm bồi thường.

Sau cùng, cần phải phân biệt giữa trách nhiệm chính trị, trách nhiệm giải trình và trách nhiệm bồi thường Nhà nước. Theo đó, Nhà nước chỉ chịu trách nhiệm bồi thường cho những hành vi công quyền gây thiệt hại cho những người dân cụ thể, trong một tình huống cụ thể. Bởi vậy, các công cụ của trách nhiệm giải trình, trách nhiệm chính trị như: trưng cầu ý dân, bỏ phiếu bất tín nhiệm, điều trần, báo cáo… không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật về Bồi thường Nhà nước.

Chú thích:

[1]  Luật cơ bản- Hiến pháp liên bang Đức và sửa đổi lần cuối  thông qua đạo luật ngày 28.08.2006 (Công báo liên bang, Trang 1, Tập I, Trang 2034)

[2] BVerfG 61, Urt. V. 19.10.1982 – 2BvF 1/81. Theo phán quyết này, Đạo luật bồi thường Nhà nước bị tuyên bố là vi hiến do không thỏa mãn các quy định về  trách nhiệm của công chức và thẩm quyền lập pháp theo các Điều 30, 31, 34, 70, 73 Nr.8, 74 Nr. 1, 75 Nr. 1 của Hiến pháp liên bang (GG) và Điều 839 của Bộ Luật Dân Sự CHLB Đức (BGB).

[3] Vấn đề này được đặt ra đối với các hành vi hành chính tư của Nhà nước, Nhà nước đã có vị trí độc quyền ở bên trong hệ thống và vì thế xuất hiện khả năng của một tố quyền về trách nhiệm công vụ theo Luật công; Tham khảo (Peine, Allgemeine Verwaltungsrecht, 7.Aufl. 2004, Rn. 63 ff.), (Vgl. Dazu OLG Nỹrnberg NJW 1994, 2032 - Postdienst

[4] PGS. TS. Nguyễn Như Phát, Một số vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 4, 2007, Trang 26. 

SOURCE: TẠP CHÍ DÂN CHỦ VÀ PHÁP LUẬT

Trích dẫn từ: http://vibonline.com.vn/vi-VN/Home/TopicDetail.aspx?TopicID=2032

Thứ Ba, 22 tháng 7, 2008

NGHIÊN CỨU PHÁP LUẬT AN SINH XÃ HỘI MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI

TS. LÊ THỊ HOÀI THU - Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội

Trong đời sống xã hội các mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với cộng đồng được hình thành và phát triển ngày càng đa dạng và phức tạp. Khi của cải xã hội ngày càng nhiều thì mức độ thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng, điều này cho thấy việc thoả mãn nhu cầu của cuộc sống phụ thuộc vào khả năng lao động của con người.

Tuy nhiên, trong suốt cuộc đời không phải lúc nào con người cũng có thể lao động tạo ra thu nhập, trái lại có nhiều trường hợp xảy ra gây cho con người bị giảm hoặc mất khả năng lao động như: ốm đau, tai nạn, già yếu, thất nghiệp, nghèo đói, chết... Đồng thời, con người còn phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên, môi trường xã hội. Những điều kiện này không phải lúc nào và ở đâu cũng thuận lợi, may mắn. Những rủi ro này là khó có thể tránh khỏi và dự báo trước được. Mỗi khi như vậy, từng cá thể phải tìm mọi cách để khắc phục. Tập hợp các rủi ro, bất lợi của các cá nhân nêu trên chính là rủi ro có tính xã hội, thậm chí lại có tính toàn cầu đòi hỏi toàn nhân loại phải giải quyết. Để giải quyết tốt những vấn đề xã hội, một trong những nhiệm vụ cơ bản của mỗi nhà nước là phải xây dựng hệ thống chính sách xã hội mà an sinh xã hội là loại chính sách xã hội phổ biến.

Theo quan niệm của tổ chức lao động quốc tế (ILO) an sinh xã hội là vấn đề liên quan đến việc bảo đảm những gì mà xã hội cung cấp cho các thành viên của nó qua một loạt chính sách công cộng, nhằm bù đắp sự bần cùng về kinh tế, do những nguyên nhân của việc giảm sút kết quả thu nhập thực tế từ việc ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, tàn tật, chăm sóc y tế, trợ cấp gia đình đông con, người già chết v. v.
Cho tới nay, tất cả các quốc gia trên thế giới đều thừa nhận được hưởng dịch vụ an sinh xã hội là một trong những quyền của con người trong mọi thời đại và mọi chế độ xã hội. Việc thực hiện an sinh xã hội không bị giới hạn bởi bất kỳ rào cản chính trị hay địa lý nào, thể hiện rõ nhất đó là các hoạt động cứu trợ xã hội, các hiệp định hợp tác về BHXH giữa các quốc gia vì một thế giới hoà bình, ổn định và phát triển. An sinh xã hội ngày càng chứng minh được vai trò quan trọng đối với mỗi quốc gia trên thế giới.

An sinh xã hội trong các công ước và khuyến nghị của Tổ chức lao động quốc tế (ILO)

Một trong những chức năng chính của ILO là hình thành những qui định có tính pháp lý và chương trình mang tính toàn cầu nhằm cải thiện điều kiện sống và việc làm cho người lao động. Một phương thức cơ bản để thực hiện chức năng đó chính là thông qua các Công ước và khuyến nghị. Năm 1952, Công ước số 102 về an sinh xã hội (Những tiêu chuẩn tối thiểu) đã được hội nghị toàn thể của Tổ chức lao động quốc tế thông qua, bao gồm 9 nhánh (tạm gọi là các chế độ). Đó là, chăm sóc y tế; ốm đau; thất nghiệp; tuổi già; tai nạn lao động; trợ cấp gia đình; thai sản; mất sức lao động; tuất. Những quốc gia phê chuẩn Công ước này áp dụng các các điều khoản của Công ước vào hệ thống pháp luật của nước mình và sẽ hình thành một hệ thống tối thiểu. Ngoài ra, Công ước đòi hỏi sự bình đẳng trong đối xử đối với người bản xứ và không phải bản xứ, cũng như qui định những hoàn cảnh ngừng chi tả trợ cấp và quyền khiếu nại khi bị từ chối chi trả.
Công ước này là một tập hợp tất cả các chính sách trong một tài liệu toàn diện, dựa vào đó các nước thành viên tham gia ký kết và xác định những chế độ được coi là nòng cốt của hệ thống an sinh xã hội nước mình. Theo Công ước 102, Nhà nước chịu trách nhiệm chính về bộ máy quản lý, sự bảo đảm an toàn và kiểm soát hoạt động của quỹ an sinh xã hội, tạo điều kiện cho đại diện của những người được bảo vệ, người sử dụng lao động và Chính phủ cùng tham gia.
Công ước 102 duy trì những tiêu chuẩn quan trọng cơ bản về an sinh xã hội mặc dù đã có hàng loạt các Công ước cụ thể, chi tiết về các nhánh (chế độ) đặc biệt này. Có thể kể đến các Công ước và khuyến nghị về an sinh xã hội sau:
Công ước:
Số 102 An sinh xã hội (Các tiêu chuẩn tối thiểu), 1952
Số 103 Bảo vệ thai sản (Sửa đổi), 1952
Số 118 Bình đẳng trong đối xử ,1962
Số 121 Chế độ về tai nạn lao động, 1964
Số 128 Chế độ mất sức lao động, tuổi già và tuất, 1967
Số 130 Chế độ ốm đau và chăm sóc y tế, 1969
Số 157 Duy trì quyền lợi BHXH, 1982
Số 165 Quy định tối thiểu những người làm việc trên biển (Sửa đổi), 1987
Số 168 Xúc tiến việc làm và chống thất nghiệp, 1988.
Khuyến nghị:
Số 95 Bảo vệ thai sản (Sửa đổi), 1952
Số 121 Chế độ tai nạn lao động, 1964
Số 131 Chế độ mất sức lao động, tuổi già và tuất, 1967
Số 134 Chế độ ốm đau và chăm sóc y tế, 1969
Số 162 Người lao động cao tuổi, 1980
Số 167 Duy trì quyền lợi BHXH, 1983
Số 176 Xúc tiến việc làm và chống thất nghiệp, 1988.
Ngoài ra, còn có một số các Công ước về an sinh xã hội với những tiêu chuẩn cao hơn, chẳng hạn về đối tượng hoặc mức hưởng các chế độ. Tuy nhiên, Công ước 102 vẫn còn có hiệu lực, bao gồm mục tiêu tối thiểu, cơ bản đối với từng nhánh (chế độ) và thiết lập được một phạm vi rộng lớn với những quy định có tính nguyên tắc chung nhằm khuyến khích phát triển mạnh mẽ các chương trình (hệ thống) an sinh xã hội ở khắp các quốc gia. Như vậy, an sinh xã hội sẽ làm chức năng phòng ngừa, khắc phục rủi ro thông qua chính sách BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp và chính sách trợ giúp xã hội liên quan đến giáo dục, dạy nghề tạo việc làm, chính sách trợ giúp xã hội.

Pháp luật an sinh xã hội ở một số nước trên thế giới và xu hướng cải cách

Nhằm duy trì ổn định kinh tế - xã hội, nhiều nước trên thế giới đã ban hành hệ thống pháp luật về an sinh xã hội và không ngừng cải cách hệ thống pháp luật của mình. Ngày nay, xu hướng cải cách hệ thống an sinh xã hội ở các nước rất khác nhau. Đối với các nước phát triển, nguyên nhân cải cách là do tỷ lệ người già ngày càng tăng, kéo theo sự gia tăng thâm hụt quỹ lương hưu và quỹ BHYT. Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cải cách hệ thống an sinh xã hội đối với nhiều nước đang phát triển là nhằm cơ cấu lại hệ thống an sinh xã hội truyền thống yếu kém và mở rộng phạm vi. Trong khi đó, các nước chuyển đổi cải cách hệ thống an sinh xã hội bởi gánh nặng về tài chính đối với chính phủ quá lớn.

Hệ thống an sinh xã hội Đức
Được hình thành từ thế kỷ 19 với bốn loại bảo hiểm cơ bản là: BHYT (1883); Bảo hiểm tai nạn (1884); Bảo hiểm hưu trí (1889); Bảo hiểm thất nghiệp (1927). Từ năm 1994, nước Đức thực hiện đạo luật về bảo hiểm chăm sóc sức khoẻ và loại bảo hiểm này trở thành một trong những bộ phận cơ bản của hệ thống BHXH Đức. Bên cạnh hệ thống bảo hiểm, các hình thức bảo trợ xã hội khác như: bảo trợ nuôi dưỡng trẻ em, bảo trợ giành cho người già... cũng được phát triển mạnh mẽ ở Đức.
Hệ thống an sinh xã hội Đức chủ yếu thực hiện theo mô hình Bismarck, lấy hệ thống BHXH làm nòng cốt để thực hiện chính sách an sinh cho mọi người dân. Hệ thống pháp luật BHXH ở Đức thực hiện trên cơ sở "hợp đồng giữa các thế hệ", thanh toán bảo hiểm trên nguyên tắc phụ thuộc, trong đó thế hệ lao động trẻ đóng những khoản tài chính để cung cấp bảo hiểm hưu trí cho thế hệ già. Mặc dù, trong những năm gần đây, hình thức thanh toán bảo hiểm kiểu này đang được cải cách theo hướng linh hoạt hơn, nhưng nó vẫn chủ yếu được dựa trên sự đóng góp tài chính của ba bên: người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước.
Do những áp lực lớn về cơ cấu tuổi thọ dân số cũng như gánh nặng hưu trí vào năm 2001 chính phủ Đức đã ban hành đạo luật cải cách hưu trí mới với mục tiêu là ổn định các tỷ lệ đóng góp trong quỹ hưu trí. Theo luật năm 2001 tỷ lệ đóng góp trong hệ thống hưu trí công cộng sẽ ở mức 20% vào năm 2020 và 22% vào năm 2030. Để đạt được mục tiêu này, phải giảm dần lợi ích hưu trí ở mức từ 70% thu nhập trung bình vào năm 2000 xuống 67% vào năm 2030. Sự sụt giảm quỹ hưu trí công cộng sẽ được bù đắp bằng các nguồn quỹ hưu trí tư nhân vào năm 2004, cải cách hưu trí lại được tiến hành ở Đức với phương châm mang lại sự ổn định về tài chính cho hệ thống BHXH. Cải cách năm 2004 nhằm vào việc tăng độ tuổi nghỉ hưu chính thức từ 65 tuổi lên 67 tuổi vào năm 2035 và tiếp tục khẳng định tỷ lệ đóng góp vào hệ thống hưu trí công cộng ở mức 20% vào năm 2020 và 22% vào năm 20301.

Hệ thống an sinh xã hội Pháp
Được hình thành từ năm 1945 và cho đến tận cuối thập kỷ 70, mô hình an sinh xã hội vẫn áp dụng chủ yếu theo mô hình Bismarck, bởi lẽ trong giai đoạn này nước Pháp đã đạt được tốc độ tăng trưởng bền vững, việc làm đầy đủ, mạng lưới an sinh xã hội mở rộng.
Những năm gần đây cho thấy, mô hình nhà nước phúc lợi là điển hình cho hệ thống an sinh xã hội kiểu bảo thủ. Pháp là nước điển hình kiên trì hỗ trợ chăm sóc trẻ em trước độ tuổi đến trường, trong đó phụ nữ được hưởng mức trợ cấp an sinh rất cao trong thời kỳ có con nhỏ.
Vào cuối thập kỷ 1990 an sinh dành cho người về hưu mới bắt đầu được chú trọng nhiều, điều này thể hiện rất rõ trong luật quỹ an sinh xã hội Pháp (2002). Xu hướng cải cách an sinh xã hội Pháp tập trung vào hệ thống bảo hiểm sức khỏe toàn diện; thành lập một khoản quỹ bồi thường cho những người bị chết vì amiăng; tăng 2,2% lương hưu trí từ 1/1/2002; thêm 11 ngày được nghỉ phép cho các bậc cha mẹ; tăng mạnh quy mô trợ giúp nhà ở; thêm 3.000 địa điểm chăm sóc sức khỏe theo ngày cho trẻ; thực hiện các biện pháp khác nhau nhằm tăng lợi ích và các điều kiện thuận lợi khác cho những người mất khả năng lao động2. Các chương trình an sinh xã hội Pháp hiện nay bao gồm: BHYT; bảo hiểm hưu trí và trợ cấp tuổi già; bảo hiểm thương tật khi làm việc; bảo hiểm thất nghiệp; Trợ cấp gia đình và mỗi chương trình này đều có luật riêng điều chỉnh.

Hệ thống an sinh xã hội ở Thuỵ Điển
Mô hình an sinh xã hội xuất hiện từ những năm 1930 theo mô hình "xã hội dân chủ". An sinh xã hội Thuỵ Điển chủ yếu dựa vào thuế và sự đóng góp, đây là mô hình an sinh xã hội "thân thiện với việc làm", có nghĩa là đảm bảo việc làm cho tất cả mọi người. Vào năm 1999, chính phủ Thụy Điển đã thực hiện các chiến lược hiện đại hoá an sinh xã hội với 4 mục tiêu cơ bản, trong đó có mục tiêu quan trọng là: "Tạo việc làm để nâng cao thu nhập, sau đó việc làm sẽ mang lại thu nhập an sinh". Thuế và hệ thống đóng góp được hình thành với tư cách mang lại lợi ích cho người dân. Biện pháp này của Thụy Điển được đánh giá là tích cực, nó không chỉ mang lại trách nhiệm về tài chính và tổ chức cho hệ thống an sinh xã hội, mà còn mang lại những lợi ích cho hệ thống chăm sóc sức khỏe, ốm đau, bệnh tật. Chính phủ Thụy Điển đã tiến hành nhiều lần cải cách hệ thống an sinh xã hội nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong phân phối an sinh cho người dân. Trong giai đoạn 1991 - 1997, chính phủ đã tiến hành hạn chế những lợi ích ốm đau và thanh toán bảo hiểm bệnh tật3.
Có thể nói hệ thống an sinh xã hội của Thuỵ Điển từ thập kỷ 90 trở lại đây gần như đã đi theo hướng "xã hội dân chủ". Nó chủ yếu được dựa trên nguyên tắc bồi thường sự mất mát thu nhập, đảm bảo thu nhập, nhằm khuyến khích năng suất lao động và việc làm tăng lên và thất nghiệp giảm xuống. Hơn nữa, hệ thống này ít nhiều được dựa trên sự tăng trưởng kinh tế liên tục và việc làm đầy đủ của đất nước (thất nghiệp chỉ dưới 4%). Tuy nhiên, trong thập kỷ 90, hệ thống này ít nhiều vẫn bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính và thất nghiệp, do vậy nó cần phải được tiếp tục cải cách cho phù hợp với tình hình mới. Ngày nay, các hình thức an sinh xã hội mà Thuỵ Điển áp dụng chủ yếu là: Bảo hiểm hưu trí cho người già;Trợ giúp xã hội; Bảo hiểm thất nghiệp; Chính sách chăm sóc người mẹ cô đơn; Chế độ nghỉ phép và chăm sóc trẻ.

Hệ thống an sinh xã hội Nhật Bản
Hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản ra đời từ những năm 1950 và liên tục được hoàn thiện. Nó đang đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế Nhật Bản. Những thành tố cơ bản của hệ thống này là dùng quỹ xã hội để đảm bảo thu nhập cho những người lâm vào tình cảnh đặc biệt; BHYT; bảo đảm phúc lợi cho những người cao tuổi, người tàn tật và trẻ em nhỏ tuổi cần cần sự chăm sóc thường xuyên; trợ cấp xã hội đối với những người có mức sống thấp hơn mức qui định. Như vậy, có thể thấy an sinh xã hội Nhật Bản bao gồm 3 bộ phận chính: chăm sóc y tế, hưu trí và phúc lợi xã hội khác. Trong đó, hưu trí là bộ phận chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng chi tiêu của hệ thống. Với những thay đổi nhanh chóng về cơ cấu và dân số với tỷ lệ người già tăng lên, số người sinh ra giảm đi, nền kinh tế-xã hội của Nhật Bản sẽ phải đối mặt với những thách thức lớn trong việc duy trì sự ổn định lâu dài. Một trong những hậu quả có thể thấy ngay được là gánh nặng quá lớn và ngày càng tăng của bộ phận dân số trên độ tuổi lao động.
Với những thay đổi về cơ cấu dân số, cùng với sự gia tăng tuổi thọ của người già, chi phí hàng năm dành cho y tế sẽ tăng một cách nhanh chóng và có thể dẫn đến mất cân bằng tài chính của các quỹ bảo hiểm. Với những thách thức đã nêu ở trên, Chính phủ Nhật Bản đã tiến hành cải cách hệ thống an sinh một thành tố quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế dài hạn, bao gồm: Cải cách lại hệ thống tài chính nhà nước; Có chính sách hợp lý trên thị trường lao động nhằm khuyến khích tạo việc làm và thu hút người lao động; Đối với hệ thống hưu trí, cần phải chuyển hoàn toàn sang hệ thống tài khoản cá nhân nhằm hạn chế gánh nặng cho lực lượng lao động, đồng thời đảm bảo được thu nhập lâu dài cho người nghỉ hưu4.

Hệ thống an sinh xã hội Anh
Vào năm 1601, đạo luật cứu tế người nghèo ra đời có nhiệm vụ cung cấp từ thuế địa phương cho các dịch vụ chăm sóc ốm đau, những người nghèo khổ bần cùng, những người không nhà cửa. Trong thế kỷ 18 và 19, các dịch vụ y tế của nước Anh đã phát triển, số lượng bác sĩ tăng rất nhanh, bệnh viện được xây dựng bằng nguồn vốn tư nhân và vốn quyên góp và được hình thành trên cơ sở lòng từ thiện của toàn bộ dân chúng. Trong thập kỷ 20, đạo luật bảo hiểm sức khỏe quốc gia ra đời (1911) và tiếp đến là đạo luật BHXH quốc gia nhằm tái thiết lại hệ thống dịch vụ xã hội sau chiến tranh thế giới thứ II.
ở Anh, cơ cấu đóng góp vào quỹ an sinh xã hội được chia làm 5 nhóm, cụ thể là: Nhóm 1: giới chủ doanh nghiệp và người lao động; Nhóm 2: đóng góp của người tự làm chủ; Nhóm 3: đóng góp của những người tình nguyện bảo vệ quyền lợi cho một số lợi ích; Nhóm 4: đóng góp của những người tự làm chủ trên lợi nhuận thuế của họ; Nhóm 5: đóng góp của người chủ cung cấp cho người lao động nhiên liệu xe hơi hoặc xe hơi xử dụng riêng. Riêng những người lao động làm việc ở độ tuổi đã nghỉ hưu thì không phải đóng góp nhưng chủ của họ tiếp tục phải đóng góp theo luật định5. Chính vì vậy, lợi ích an sinh phụ thuộc vào thanh toán của những người đóng góp như: người chủ, người thợ, người làm việc nửa ngày cho quỹ bảo hiểm quốc gia và chính phủ cũng góp phần vào quỹ này. Còn những lợi ích an sinh xã hội khác thường dành cho những người không đóng góp và được trích từ thuế. Hệ thống an sinh xã hội ở Anh bao gồm: bảo hiểm hưu trí; trợ cấp cho cha mẹ và trẻ em; trợ cấp ốm đau và mất sức lao động; bảo hiểm thất nghiệp; trợ cấp cho những người đang tìm kiếm việc làm.
Tìm hiểu pháp luật an sinh một số nước trên thế giới cho thấy, dù khác nhau về yếu tố địa lý, kinh tế, xã hội, sắc tộc... nhưng pháp luật BHXH và cứu trợ xã hội vẫn là thành tố quan trọng nhất của hệ thống. BHXH được thực hiện thông qua sự đóng góp của các cá nhân và hỗ trợ của Chính phủ và cứu trợ xã hội là việc làm tái phân phối của quốc gia, là chế độ bảo hộ đối với công dân.
Trong những năm gần đây, cùng với những áp lực ngày càng tăng lên của những chi phí an sinh xã hội, đa số các nước, đặc biệt là nước phát triển đưa ra các biện pháp cắt giảm chi phí an sinh xã hội. Những biện pháp chủ yếu bao gồm: giới hạn phạm vi bảo hiểm thất nghiệp, giảm các tiêu chuẩn của lợi ích, hạn chế việc tăng quá mức chi phí y tế, kéo dài tuổi thọ về hưu, kiềm chế việc về hưu sớm, cắt giảm những lợi ích của lương hưu, kiểm soát những lợi ích thương mại, giảm các khoản mục trợ cấp và hạ thấp các tiêu chuẩn trợ cấp.
Sau nhiều năm khám phá, nhiều nước đã nhận ra rằng cung cấp các cơ hội về việc làm tốt hơn là chỉ cung cấp các trợ cấp cho người nghèo. Nhiều nước đã tiến hành đào tạo nghề cho người bị thất nghiệp nhằm cải thiện khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường lao động./.

Tài liệu tham khảo:
1 Combating Pverty in Europe: the German Welfare Regime in Practive, Peter Krause, Cash & Care, 2004.
2 Building Social Europe through the Open Method of Coordition, P.I.E. Peter Lang, 2003.
3 Building a Dynamic Europe: the Key Policy Debates, Jodi Gual, IESE, 2004.
4 Hệ thống bảo trợ xã hội ở Nhật Bản, Thông tin khoa học Lao động và Xã hội số 3/2000.
5 Aspects of Britain Social Welfare, London: HMSO,1995.

SOURCE: TẠP CHÍ BẢO HIỂM XÃ HỘI SỐ 9 NĂM 2007

Chủ Nhật, 20 tháng 7, 2008

THÔNG BÁO VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

notary2 THS. LÊ ANH TUẤN - Cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp

Thông báo được hiểu là một hình thức chuyển tải nội dung thông tin nhất định đến đối tượng được thông tin, nhằm làm cho đối tượng được nhận thông tin biết được thông tin để thực hiện những hành vi nhất định. Trong hoạt động thi hành án dân sự, việc thông báo những thông tin về thi hành án đòi hỏi phải thực hiện theo đúng quy định của pháp luật về nội dung, đối tượng thông báo về thi hành án không phải trong trường hợp nào cũng như nhau và do người có thẩm quyền thực hiện và theo hình thức nhất định.

1. Cơ sở pháp lý

Có thể nói thông báo về thi hành án là việc người có thẩm quyền thực hiện việc chuyển tải giấy tờ chứa đựng thông tin về thi hành án cho người được thông báo theo trình tự, thủ tục nhất định, nhằm bảo đảm cho việc thi hành án đúng pháp luật, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự tham gia vào việc thi hành án. Các giấy tờ về thi hành án được thông báo bằng nhiều hình thức khác nhau và được chuyển tải đến đối tượng được thông báo có thể trực tiếp bằng những giấy tờ đó hoặc chỉ là nội dung của những giấy tờ đó.

Việc thông báo thông tin về thi hành án cho các đương sự biết và tham gia vào việc thi hành án nhằm tạo điều kiện để kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Đây là biện pháp thể hiện sự dân chủ với dân trong hoạt động của cơ quan thi hành án, để “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” hoạt động của Chấp hành viên, cán bộ thi hành án; đồng thời bảo đảm quyền được thông tin, quyền được biết và tham gia vào việc thi hành án của các đương sự mà pháp luật đã quy định. Việc thông báo cho các đương sự biết về thi hành án được thực hiện đúng quy định sẽ hạn chế được những khiếu nại, tố cáo không đúng pháp luật về thi hành án của đương sự; giảm thiểu hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án của cơ quan thi hành án và cơ quan nhà nước khác có thẩm quyền.

Trong hệ thống các quy định pháp luật về thủ tục thi hành án dân sự, nhiều quy định về thủ tục do cơ quan thi hành án thực hiện phải báo cáo hoặc gửi các tài liệu, giấy tờ về thi hành án đến cơ quan, tổ chức có thẩm quyền và trong phạm vi nhất định phải được chuyển tải tới những người tham gia vào hoạt động thi hành án. Các quy định này đòi hỏi cơ quan thi hành án công khai, thể hiện sự minh bạch hoá hoạt động của Chấp hành viên, cán bộ thi hành án để các cơ quan chức năng phát hiện những sai sót, lệch lạc trong hoạt động thi hành án, kịp thời uốn nắn, bảo đảm thủ tục thi hành án đúng quy định của pháp luật, tránh tình trạng cơ quan thi hành án tuỳ tiện, quan liêu, dẫn đến vi phạm pháp luật trong quá trình thi hành án.

Quy định thông báo về thi hành án hiện nay chủ yếu tại các văn bản sau đây: Điều 34 Pháp lệnh Thi hành án dân sự ngày 14/01/2004. Nghị định số 164/2004/NĐ-CP ngày 14/9/2004 của Chính phủ về kê biên, đấu giá quyền sử dụng đất để đảm bảo thi hành án. Nghị định số 173/2004/NĐ-CP ngày 30/9/2004 của Chính phủ quy định thủ tục, cưỡng chế và xử phạt vi phạm hành chính trong thi hành án dân sự. Mục 3 Công văn số 404/TP-THA ngày 24/02/2005 của Bộ Tư pháp hướng dẫn một số vấn đề về nghiệp vụ thi hành án. Thông tư số 06/2006/TT-BTP ngày 5/7/2006 của Bộ Tư pháp hướng dẫn một số thủ tục hành chính trong thi hành án dân sự. Thông tư số 07/2007/TT-BTP ngày 09/10/2007 của Bộ Tư pháp hướng dẫn một số vấn đề về thông báo việc kê biên tài sản thi hành án và cung cấp thông tin về tài sản kê biên tại các Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp. Thông tư liên tịch số 36/2008/TTLT-BTC-BTP ngày 28/4/2008 của Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp về việc sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số 03/2007/TTLT-BTC-BTP ngày 10/01/2007 hướng dẫn chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí đăng ký và phí cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm.

Việc thông báo về thi hành án có đặc điểm là một thủ tục do pháp luật quy định. Thủ tục thông báo về thi hành án do người có thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật, đó có thể là Chấp hành viên, cán bộ thi hành án hoặc cá nhân, tổ chức khác. Đây là thủ tục tiến hành công việc chuyển tải những thông tin nhất định về thi hành án theo những quy định cụ thể được sắp xếp theo trình tự của pháp luật về thi hành án dân sự. Việc thực hiện thông báo về thi hành án không đúng trình tự pháp luật quy định được xác định là vi phạm thủ tục thông báo về thi hành án nói riêng, vi phạm thủ tục thi hành án nói chung.

Thông báo về thi hành án được thực hiện bằng một hoặc nhiều hình thức nhất định. Pháp luật quy định các hình thức thông báo cho các đương sự về các quyết định thi hành án theo hướng rộng rãi, công khai nhưng giản tiện, tiết kiệm, đồng thời quy định nghĩa vụ của những chủ thể trong việc thực hiện thông báo. Thông báo được coi là một nghĩa vụ. Nghĩa vụ thông báo về thi hành án xác định trách nhiệm của người thực hiện việc thông báo, người được thông báo. Tuỳ theo tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi của người có nghĩa vụ thực hiện thông báo, nhận thông báo gây ra mà phải gánh chịu chế tài do pháp luật quy định.

Thực tiễn thi hành án thời gian qua cho thấy, một số trường hợp việc gửi các quyết định về thi hành án nói riêng và thông báo về thi hành án nói chung không được chú trọng hoặc không đúng quy định của pháp luật dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan thi hành án, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Ví dụ: Trường hợp thi hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận 03/QĐ-HGT ngày 28/2/1999 của Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh L. Theo nội dung Quyết định này thì bà T phải thanh toán nợ cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện S số tiền là 209.269.900 đồng, trong đó tiền gốc là 108.100.000 đồng, tiền lãi là 101.169.900 đồng và án phí dân sự là 4.639.000 đồng.  Trong quá trình tổ chức thi hành án, do bà T không tự nguyện thi hành nên ngày 07/8/1999 Đội thi hành án huyện S (nay là Thi hành án dân sự huyện S) đã cưỡng chế kê biên toàn bộ nhà và trang thiết bị dùng cho việc kinh doanh nhà nghỉ trên diện tích đất 186,3 m2 tại phố Xuân Viên, thị trấn S, huyện S, là tài sản bà T đã thế chấp để vay tiền tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện S. Ngày 03/9/1999, Thi hành án dân sự huyện S định giá tài sản trên với giá 273.424.000 đồng và ký hợp đồng uỷ quyền cho Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản tỉnh L để bán tài sản đã kê biên của bà T. Ngày 15/10/1999, Thi hành án dân sự huyện S tổ chức cưỡng chế giao nhà, đất trên cho người trúng đấu giá là ông Nguyễn Minh K. Sau khi bị cưỡng chế kê biên tài sản, bà T có nhiều đơn khiếu nại về việc bị cưỡng chế thi hành án. Trên cơ sở xác minh, cơ quan có thẩm quyền đã quyết định chấp nhận một phần khiếu nại của bà T về những nội dung Thi hành án dân sự huyện S có sai sót là không giao(thông báo) quyết định cưỡng chế giao tài sản của cơ quan thi hành án cho bà Trinh; kê biên một số tài sản là đồ dùng sinh hoạt của gia đình bà T và việc giải quyết khiếu nại của Thi hành án dân sự huyện S và Thi hành án dân sự tỉnh L chưa kịp thời. Trưởng Thi hành án dân sự huyện S có trách nhiệm hoàn trả cho bà T số tiền 2.540.000 đồng và lãi suất của số tiền này theo mức lãi suất tiền gửi Ngân hàng tính từ ngày phát mãi tài sản vì đã chi phí cưỡng chế không đúng quy định của pháp luật.

Trong giới hạn nhất định, việc thông báo về thi hành án có giá trị đối với người thứ ba, kể từ ngày người đó tiếp nhận thông báo. Đặc điểm này thể hiện rất rõ trong quy định về thông báo quyết định kê biên tài sản tại khoản 6 Điều 21 Nghị định số 173/2004/NĐ-CP ngày 30/9/2004 của Chính phủ, theo đó thông báo về quyết định kê biên tài sản có giá trị đối với người thứ ba, kể từ ngày thông báo đó được cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận. Kể từ thời điểm nhận được thông báo về việc kê biên tài sản, cơ quan đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản không thực hiện việc đăng ký chuyển dịch tài sản đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

2. Các loại giấy tờ về thi hành án được thông báo 

Theo quy định tại khoản 1 Điều 34 Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 chia làm 3 loại, bao gồm: Các quyết định về thi hành án được hiểu là các hành vi thể hiện bằng hành động của người có thẩm quyền tiến hành hoạt động thi hành án. Các quyết định về thi hành án được thể hiện bằng văn bản, như: Quyết định thi hành án, quyết định hoãn thi hành án, quyết định tạm đình chỉ thi hành án, quyết định trả đơn yêu cầu thi hành án, quyết định khôi phục thời hiệu thi hành án, quyết định cưỡng chế thi hành án.v.v.

Giấy báo về thi hành án được Bộ Tư pháp ban hành theo mẫu thống nhất để thông báo cho các đương sự biết những nội dung thông tin nhất định về thi hành án để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ. Giấy báo về thi hành án có nhiều loại, như: Giấy báo tự nguyện thi hành án, Giấy báo đương sự đến giải quyết việc thi hành án.

Giấy triệu tập về thi hành án do Chấp hành viên ban hành để triệu tập đương sự, người có liên quan đến việc thi hành án đến trụ sở cơ quan thi hành án hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi thi hành án để thực hiện việc thi hành án. Căn cứ để ban hành giấy triệu tập về thi hành án dựa trên cơ sở nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên quy định tại khoản 2 Điều 14 Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004.

Những người có nghĩa vụ thực hiện thông báo gồm có: Chấp hành viên, cán bộ thi hành án. Thủ trưởng cơ quan nơi người được thông báo công tác. Cán bộ Tư pháp cấp xã. Người thân thích có năng lực hành vi dân sự đầy đủ cùng sống trong một gia đình với người được thông báo. Báo, đài phát thanh hoặc đài truyền hình của Trung ương. Báo, đài phát thanh hoặc đài truyền hình của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nếu xác định được đương sự đang ở tại địa phương đó. Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn có trách nhiệm xác nhận việc niêm yết thông báo.

Tuy có nhiều người có nghĩa vụ thực hiện thông báo, nhưng nghĩa vụ chính thuộc về Chấp hành viên, cán bộ thi hành án. Những người khác chỉ mang tính chất phối hợp với Chấp hành viên, cán bộ thi hành án, nhưng người nhận thay phải cam kết chuyển kịp thời, đúng thời gian quy định đến tận tay cho người được thông báo. Cơ quan báo, đài phải có văn bản xác nhận đã thực hiện xong việc thông báo và gửi cơ quan thi hành án để lưu hồ sơ thi hành án. Chính quyền địa phương xác nhận việc thực hiện niêm yết thông báo.

Pháp luật hiện nay yêu cầu cơ quan thi hành án không chỉ thông báo đến người được thi hành án, người phải thi hành án, mà còn phải thông báo đến người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án. Đối với một quyết định về thi hành án, theo quy định của Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 phải gửi cho Viện Kiểm sát cùng cấp để Viện Kiểm sát thực hiện việc kiểm sát thi hành án. Trong trường hợp uỷ thác thi hành án, thì quyết định uỷ thác thi hành án còn phải được gửi cho Viện Kiểm sát cùng cấp với cơ quan thi hành án nơi nhận uỷ thác. Ngoài ra, các tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến hoạt động thi hành án cũng được thông báo một số nội dung về thi hành án.

Đối tượng được thông báo về thi hành án gồm có những người sau đây: Người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án, Viện Kiểm sát nhân dân, Toà án, chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người bị kết án cư trú và các tổ chức, cá nhân liên quan đến việc thi hành án.

3. Hình thức và thủ tục thông báo về thi hành án:

Theo quy định tại khoản 2 Điều 34 Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004, các cơ quan thi hành án phải thực hiện các hình thức thông báo về thi hành án, cụ thể có 3 hình thức thông báo được thực hiện theo trình tự như sau:

3.1. Thông báo trực tiếp

Đây là hình thức thông báo đầu tiên, có 3 cấp độ:

- Chấp hành viên, cán bộ thi hành án phải thực hiện thông báo trực tiếp cho người được thông báo.

Hình thức thông báo về thi hành án này đòi hỏi Chấp hành viên hoặc cán bộ thi hành án phải giao trực tiếp các quyết định, giấy báo hoặc giấy triệu tập về thi hành án cho người được thông báo. Khi thông báo bằng hình thức này, người thông báo phải yêu cầu người nhận thông báo ký nhận là đã nhận được giấy tờ về thi hành án được giao. Tuỳ từng trường hợp cụ thể, người thông báo có thể lập biên bản giao nhận thông báo (đối với các quyết định về thi hành án) hoặc ký nhận vào phần cuống của thông báo (đối với giấy báo tự nguyện thi hành án, giấy triệu tập), nhưng biên bản hoặc cuống của thông báo phải thể hiện việc giao nhận thông báo về thi hành án và phải lưu vào hồ sơ thi hành án.

- Trường hợp không thực hiện được việc giao trực tiếp do có khó khăn trong việc giao trực tiếp thì việc thông báo được thực hiện bằng thư bảo đảm qua đường bưu điện.

Trường hợp khó khăn trong việc giao trực tiếp thông báo được hiểu là trường hợp khó khăn trong việc gặp gỡ trực tiếp người được thông báo để giao thông báo, như đường sá xa xôi từ trụ sở cơ quan thi hành án đến nơi người được nhận thông báo đang cư trú hoặc cơ quan thi hành án cùng một thời điểm có nhiều thông báo về thi hành án phải thông báo cho nhiều người được thông báo mà nếu giao thông báo trực tiếp bằng hình thức giao nhận thì không đủ người để thực hiện. Trường hợp người được thông báo cố tình không ký nhận thông báo thì cũng được xem là có khó khăn trong việc giao trực tiếp thông báo về thi hành án.

- Nếu người được thông báo vắng mặt thì các giấy tờ về thi hành án được giao cho Thủ trưởng cơ quan nơi người đó công tác, cán Bộ Tư pháp cấp xã hoặc người thân thích có năng lực hành vi dân sự đầy đủ cùng sống trong một gia đình với người được thông báo nhận thay.

Hình thức thông báo này được áp dụng nếu trong trường hợp đã xác định được địa chỉ cụ thể của người được thông báo, nhưng khi thông báo về thi hành án thì họ không có mặt do đi vắng (đi làm hoặc đi công tác, chữa bệnh.v.v). Khi thực hiện thông báo theo hình thức này phải lưu ý: Nếu người được thông báo đang công tác ổn định ở một cơ quan, đơn vị hoặc tổ chức, thì thông báo cần giao cho Thủ trưởng cơ quan nơi người được thông báo đang công tác. Trường hợp họ không phải là người đang công tác hoặc làm việc ổn định tại một cơ quan, tổ chức nào và cũng không có người thân thích có năng lực hành vi dân sự đầy đủ cùng sống trong một gia đình thì cần thông báo qua cán Bộ Tư pháp cấp xã. Trong trường hợp người được thông báo có người thân thích có năng lực hành vi dân sự đầy đủ cùng sống trong một gia đình với họ, thì giao cho người này nhận thay.

Trong trường hợp thông báo thực hiện thông qua người nhận thay, việc xác định thời điểm người được thông báo nhận được thông báo là thời điểm người nhận thay cam kết chuyển cho người được thông báo.

Ví dụ: Trong trường hợp thông báo quyết định thi hành án cho chồng là người phải thi hành án nhưng người chồng vắng mặt, ngày 03/01/2007 vợ của người đó nhận thay và cam kết sẽ chuyển quyết định thi hành án cho người phải thi hành án vào ngày 04/01/2007, thì ngày 04/01/2007 được xác định là thời điểm người phải thi hành án nhận được thông báo.

Khi thực hiện việc thông báo, cơ quan thi hành án phải lập biên bản xác định rõ trách nhiệm của người nhận thay trong việc chuyển thông báo cho người được thông báo.

Trường hợp vì lý do khách quan mà người đó cam kết nhận thay thông báo không chuyển thông báo cho người được thông báo, thì phải báo cáo cho cơ quan thi hành án biết. Trong trường hợp này, cơ quan Thi hành án thực hiện việc thông báo bằng hình thức niêm yết công khai hoặc thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 34 Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004.

3.2. Niêm yết công khai

Đây là hình thức mà cơ quan thi hành án phải thực hiện nếu việc thông báo trực tiếp không thực hiện được. Việc niêm yết được thực hiện tại Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi cư trú và tại nơi ở của người được thông báo nếu xác định được nơi ở của người đó.

Về thủ tục, việc niêm yết công khai phải được lập biên bản, ghi rõ ngày, tháng, năm niêm yết, nội dung thông báo và người thực hiện niêm yết, có xác nhận của chính quyền địa phương.

Khi tiến hành niêm yết công khai, Chấp hành viên cần ấn định thời gian nhất định (kể từ ngày niêm yết) để người được thông báo thực hiện các quyền, nghĩa vụ của họ.

Ví dụ: Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày niêm yết, người phải thi hành án phải đến cơ quan thi hành án để giải quyết việc thi hành án.

Việc ấn định thời gian cần căn cứ vào từng vụ việc cụ thể, nhưng phải đảm bảo cho người được thông báo biết để thực hiện quyền, nghĩa vụ của họ theo thông báo.

3.3. Thông báo công khai trên phương tiện thông tin đại chúng

Đây là hình thức thông báo mà cơ quan thi hành án phải thực hiện trong trường hợp việc thông báo trực tiếp hoặc niêm yết công khai không có kết quả. Hình thức thông báo công khai cũng có thể được thực hiện cùng với việc thực hiện niêm yết công khai.

Việc thông báo công khai được thực hiện 2 lần thông qua cơ quan báo, đài truyền hình, đài phát thanh của Trung ương hoặc của cấp tỉnh nơi đương sự cư trú hoặc có tài sản. Trong trường hợp này, cơ quan thi hành án phải lưu giữ trong hồ sơ thi hành án văn bản xác nhận đã thông báo của cơ quan đã thực hiện thông báo.

Trong việc thực hiện thông báo công khai trên phương tiện thông tin đại chúng, cần lưu ý là trường hợp có cơ sở xác định người được thông báo ở tại địa phương thì thông báo trên các đài, báo địa phương. Nếu có cơ sở xác định người đó không ở tại địa phương thì cơ quan thi hành án phải thông báo trên đài, báo Trung ương.

4 Thời hạn và nội dung thông báo về thi hành án

Tuỳ từng loại việc thông báo về thi hành án, pháp luật quy định thời hạn và nội dung thông báo về thi hành án có sự khác nhau. Thời hạn và nội dung thông báo về thi hành án đối với từng trường hợp cụ thể được quy định rải rác ở nhiều quy định trong pháp luật về thi hành án, trong đó có những loại thời hạn và nội dung cơ bản sau đây:

4.1. Thông báo quyết định về thi hành án

Đối với các quyết định thi hành án, pháp luật không quy định cụ thể thời hạn thông báo, nhưng theo quy định tại khoản 3 Điều 6 Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004, căn cứ vào quyết định thi hành án, Chấp hành viên định cho người phải thi hành án thời hạn không quá ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được quyết định thi hành án để tự nguyện thi hành, trừ trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, huỷ hoại tài sản hoặc trốn trách việc thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 7 của Pháp lệnh này. Vì vậy, để đảm bảo hiệu quả thi hành án, thì sau khi ra quyết định thi hành án và thụ lý việc thi hành án, cơ quan thi hành án cần kịp thời thông báo quyết định thi hành án.

Đối với các quyết định khác về thi hành án mà pháp luật cũng không quy định cụ thể về thời hạn phải thực hiện thông báo (gửi), thì cơ quan thi hành án cũng cần kịp thời thông báo các quyết định đó cho những người được nhận quyết định đó.

Trong trường hợp thông báo về quyết định cưỡng chế thi hành án thì Chấp hành viên phải thông báo về dự trù chi phí cưỡng chế thi hành án cho người phải thi hành án biết trước khi tiến hành cưỡng chế thi hành án theo quy định tại khoản 4 Điều 28 Nghị định số 173/2004/NĐ-CP ngày 30/9/2004 của Chính phủ, trừ trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án tẩu tán, huỷ hoại tài sản, trốn trách việc thi hành án hoặc trường hợp họ không phải nộp chi phí cưỡng chế thi hành án. Nếu người được thi hành án phải chịu chi phí cưỡng chế thi hành án, thì Chấp hành viên cũng phải thông báo về dự trù chi phí cưỡng chế thi hành án cho người được thi hành án biết trước khi tiến hành cưỡng chế.

4.2. Thông báo về việc kê biên tài sản

Đây là loại công việc thông báo về thi hành án thường hay gặp, phức tạp và dễ sai sót nhất, do đó Chấp hành viên phải chú trọng trong việc thực hiện đối với từng trường hợp cụ thể theo cách thức, trình tự, thời gian và những tiêu chí khác của việc thông báo về kê biên tài sản.

a) Trước khi kê biên tài sản, Chấp hành viên phải thông báo cho người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền, lợi ích liên quan đến việc thi hành án biết về thời gian, địa điểm kê biên tài sản.

Đối với tài sản kê biên thuộc diện đăng ký quyền sở hữu, sử dụng, đăng ký giao dịch bảo đảm thì Chấp hành viên phải thông báo ngay sau khi ra quyết định kê biên tài sản cho các cơ quan sau đây biết việc kê biên tài sản: Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, cơ quan có thẩm quyền về đăng ký tài sản gắn liền với đất trong trường hợp kê biên quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất; Cục Hàng không Việt Nam, trong trường hợp tài sản kê biên là máy bay; cơ quan đăng ký tàu biển và thuyền viên khu vực, trong trường hợp tài sản kê biên là tàu biển; Cục Cảnh sát giao thông đường bộ, Phòng Cảnh sát giao thông đường bộ, trong trường hợp tài sản kê biên là phương tiện giao thông cơ giới đường bộ; cơ quan đăng ký thuộc Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp, trong trường hợp tài sản kê biên không thuộc một trong các trường hợp nêu trên, trừ trường hợp tài sản kê biên là tài sản có giá trị nhỏ hoặc tài sản kê biên đã được giao cho cá nhân, tổ chức có điều kiện bảo quản hay được bảo quản tại kho của cơ quan thi hành án; Các cơ quan có thẩm quyền đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng khác theo quy định của pháp luật.

Đối với quyền sử dụng đất, chậm nhất là bảy ngày làm việc trước ngày kê biên, Chấp hành viên phải thông báo trực tiếp bằng văn bản về việc kê biên quyền sử dụng đất cho người được thi hành án, người phải thi hành án, người nhận thế chấp, người nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất, người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến quyền sử dụng đất, các thành viên Hội đồng kê biên quyền sử dụng đất, Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp và Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi có đất bị kê biên. Đồng thời với việc thông báo công khai trên phương tiện thông tin đại chúng của địa phương phải niêm yết việc kê biên quyền sử dụng đất tại trụ sở cơ quan thi hành án và Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi có đất bị kê biên theo quy định tại Điều 11 Nghị định số 164/2004/NĐ-CP ngày 14/9/2004 của Chính phủ. Trong trường hợp người phải thi hành án có nhiều thửa đất hoặc nhiều loại đất mà có giá trị lớn hơn số tiền phải thi hành án, kể cả quyền sử dụng đất gắn liền với tài sản, thì Chấp hành viên phải thông báo cho họ về việc họ được lựa chọn đề nghị kê biên thửa đất hoặc loại đất nào trước.

Đối với tài sản được cầm cố, thế chấp hợp pháp không thuộc diện được kê biên theo quy định tại khoản 4 Điều 41 Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 thì Chấp hành viên phải thông báo cho người nhận cầm cố, thế chấp biết nghĩa vụ của người phải thi hành án và yêu cầu họ thông báo để cơ quan thi hành án kê biên tài sản khi người cầm cố, thế chấp thanh toán nghĩa vụ theo hợp đồng cầm cố, thế chấp.

b) Trong việc thông báo về kê biên tài sản cho Trung tâm Đăng ký theo quy định tại điểm đ khoản 5 Điều 21 Nghị định số 173/2004/NĐ-CP ngày 30/9/2004 của Chính phủ, Thông tư số 07/2007/TT-BTP ngày 09/10/2007 của Bộ Tư pháp, Chấp hành viên cần lưu ý những nội dung quan trọng sau đây:

- Chấp hành viên không thực hiện việc thông báo về kê biên tài sản cho Trung tâm Đăng ký khi ra quyết định kê biên đối với các tài sản là: Ô tô, xe máy, phương tiện giao thông cơ giới đường bộ khác; phương tiện giao thông đường sắt.Tàu cá; phương tiện giao thông đường thuỷ nội địa. Máy móc, thiết bị, dây chuyền sản xuất, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, hàng tiêu dùng, các hàng hoá khác, kim khí quý, đá quý. Cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, séc và các loại giấy tờ có giá khác theo quy định của pháp luật và được phép giao dịch. Quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng; quyền đòi nợ, các quyền tài sản khác thuộc sở hữu của người phải thi hành án phát sinh từ hợp đồng hoặc từ các căn cứ pháp lý khác. Quyền tài sản đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp. Quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự theo quy định của pháp luật. Các động sản khác theo quy định tại khoản 2 Điều 174 của Bộ luật dân sự, trừ tàu bay, tàu biển. Các tài sản gắn liền với đất, trừ nhà ở, công trình kiến trúc khác, rừng sản xuất là rừng trồng, vườn cây lâu năm.

Tuy nhiên, Chấp hành viên không thực hiện việc thông báo về kê biên tài sản cho Trung tâm Đăng ký khi ra quyết định kê biên đối với các tài sản nêu trên trong các trường hợp sau đây: Tài sản kê biên đã được giao cho cá nhân, tổ chức có điều kiện bảo quản hoặc đã được bảo quản tại kho của cơ quan thi hành án theo quy định tại điểm c khoản 1 và khoản 2 Điều 25 Nghị định số 173/2004/NĐ-CP. Tổng giá trị tài sản theo quyết định kê biên (không bao gồm các tài sản là ô tô, xe máy, phương tiện giao thông cơ giới đường bộ khác; phương tiện giao thông đường sắt) không quá 10 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định. Giá trị của tài sản kê biên do Chấp hành viên tạm tính.

Trong trường hợp kê biên phương tiện giao thông cơ giới đường bộ thì Chấp hành viên có trách nhiệm thông báo về việc kê biên tài sản đó cho Cục Cảnh sát giao thông đường bộ, đường sắt hoặc Phòng Cảnh sát giao thông nơi phương tiện được đăng ký đồng thời với việc thông báo cho Trung tâm Đăng ký.

- Người có trách nhiệm thông báo về việc kê biên tài sản cho Trung tâm Đăng ký là Chấp hành viên ra quyết định kê biên hoặc Chấp hành viên được cơ quan thi hành án phân công thực hiện việc thông báo. Chấp hành viên thực hiện thông báo có trách nhiệm thông báo về việc kê biên các tài sản đúng thời hạn quy định; lập các văn bản liên quan đến thông báo về việc kê biên tài sản có đầy đủ nội dung theo mẫu được ban hành kèm theo Thông tư số 07/2007/TT-BTP ngày 09/10/2007 của Bộ Tư pháp và chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại của công chức trong trường hợp thông báo về việc kê biên tài sản không đúng thẩm quyền, không đúng thời hạn hoặc không đúng sự thật mà gây ra thiệt hại cho người thứ ba ngay tình khi xác lập giao dịch có đối tượng là tài sản đã bị kê biên.

Các Trung tâm Đăng ký được thành lập tại một số địa phương theo quyết định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thẩm quyền giải quyết thông báo về việc kê biên tài sản và cung cấp thông tin về tài sản kê biên trong phạm vi cả nước, không phân biệt thẩm quyền theo địa giới hành chính nơi Trung tâm Đăng ký đặt trụ sở. Chấp hành viên có quyền lựa chọn một trong các Trung tâm Đăng ký để thông báo về việc kê biên tài sản và yêu cầu cung cấp thông tin. Việc giải quyết thông báo về việc kê biên tài sản và cung cấp thông tin tại các Trung tâm Đăng ký có giá trị pháp lý như nhau.

- Việc thông báo về kê biên tài sản có giá trị pháp lý đối với người thứ ba kể từ thời điểm thông báo cho đến khi hết hiệu lực của thông báo đó theo quy định. Khi ra quyết định kê biên tài sản, Chấp hành viên phải thông báo ngay về việc kê biên tài sản cho Trung tâm Đăng ký theo trình tự, thủ tục quy định. Đối với Thi hành án cấp quân khu, thi hành án dân sự tại các địa phương thuộc nông thôn, vùng sâu, vùng xa mà không thể thông báo ngay về việc kê biên tài sản cho Trung tâm Đăng ký thì thời hạn này được tăng thêm, nhưng không quá năm ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định kê biên tài sản.

Trong trường hợp gửi Văn bản thông báo về việc kê biên tài sản cho Trung tâm Đăng ký theo đường bưu điện thì thời hạn năm ngày được tính theo dấu xác nhận gửi đi của Bưu điện.

- Thời điểm có hiệu lực của thông báo về việc kê biên tài sản là thời điểm Trung tâm Đăng ký tiếp nhận Văn bản thông báo về việc kê biên tài sản thi hành án hợp lệ. Văn bản thông báo về việc kê biên tài sản thi hành án hợp lệ là văn bản có đầy đủ các nội dung theo mẫu quy định. Thời điểm có hiệu lực của thông báo về việc kê biên tài sản trong các trường hợp khác nhau được tính như sau:

+ Trường hợp Chấp hành viên yêu cầu sửa chữa sai sót khi kê khai về tên, số của giấy tờ xác định tư cách pháp lý của người phải thi hành án do kê khai không đúng thì thời điểm có hiệu lực của thông báo nêu trên là thời điểm Trung tâm Đăng ký nhận Văn bản yêu cầu sửa chữa sai sót nội dung thông báo về kê biên tài sản thi hành án hợp lệ.

+ Trường hợp Chấp hành viên yêu cầu sửa chữa sai sót khi kê khai về tài sản kê biên thì thời điểm có hiệu lực của thông báo nêu trên đối với phần tài sản đó là thời điểm Trung tâm Đăng ký nhận Văn bản yêu cầu sửa chữa sai sót nội dung thông báo về kê biên tài sản thi hành án hợp lệ.

+ Trường hợp Chấp hành viên yêu cầu thay đổi nội dung đã thông báo thì thời điểm có hiệu lực của thông báo về việc kê biên tài sản vẫn là thời điểm Trung tâm Đăng ký tiếp nhận Văn bản thông báo về việc kê biên tài sản thi hành án hợp lệ; nếu thông báo về việc bổ sung tài sản kê biên thì thời điểm có hiệu lực của thông báo đối với phần tài sản bổ sung là thời điểm Trung tâm Đăng ký nhận Văn bản yêu cầu thay đổi nội dung đã thông báo về kê biên tài sản thi hành án hợp lệ.

- Thời điểm Trung tâm Đăng ký nhận Văn bản thông báo về việc kê biên tài sản thi hành án được tính như sau: Trong trường hợp Văn bản thông báo về việc kê biên tài sản thi hành án được nộp trực tiếp tại Trung tâm Đăng ký thì thời điểm nhận được Văn bản đó là thời điểm Chấp hành viên nộp. Trong trường hợp Văn bản thông báo về việc kê biên tài sản thi hành án được gửi qua fax trong giờ làm việc của Trung tâm Đăng ký thì thời điểm nhận được Văn bản đó là thời điểm nhận qua fax; nếu gửi qua fax ngoài giờ làm việc của Trung tâm Đăng ký thì thời điểm nhận được Văn bản đó là thời điểm bắt đầu buổi làm việc tiếp theo. Trong trường hợp Văn bản thông báo về việc kê biên tài sản thi hành án được gửi qua đường bưu điện tới Trung tâm Đăng ký trong giờ làm việc thì thời điểm nhận được Văn bản đó là thời điểm nhận từ cơ quan bưu điện; nếu được gửi qua đường bưu điện tới Trung tâm Đăng ký ngoài giờ làm việc thì thời điểm nhận được Văn bản đó là thời điểm bắt đầu buổi làm việc tiếp theo.

Thông báo về việc kê biên tài sản có hiệu lực trong thời hạn năm năm, kể từ thời điểm Trung tâm Đăng ký nhận được Văn bản thông báo về việc kê biên tài sản hợp lệ, trừ trường hợp có yêu cầu xoá thông báo về việc kê biên trước hạn hoặc có yêu cầu gia hạn. Thời hạn mỗi lần gia hạn thông báo về việc kê biên tài sản là năm năm.

- Khi kê khai tên, số giấy tờ xác định tư cách pháp lý của người phải thi hành án, Chấp hành viên phải ghi đầy đủ, chính xác theo các loại giấy tờ, văn bản quy định.

+ Đối với cá nhân là công dân Việt Nam: Kê khai đầy đủ họ và tên theo Chứng minh nhân dân; số Chứng minh nhân dân; trong trường hợp không có Chứng minh nhân dân thì kê khai theo tên, địa chỉ của cá nhân đó được ghi trong bản án, quyết định của Toà án được thi hành hoặc kê khai theo tên, địa chỉ trong biên bản xác minh của Chấp hành viên. Trường hợp là quân nhân tại ngũ thì kê khai đầy đủ họ và tên theo Chứng minh thư quân đội, số Chứng minh thư quân đội.

+ Đối với cá nhân là người nước ngoài: Kê khai đầy đủ họ và tên theo Hộ chiếu; số Hộ chiếu; trong trường hợp không có Hộ chiếu thì kê khai theo tên, địa chỉ của cá nhân đó được ghi trong bản án, quyết định của Toà án được thi hành hoặc kê khai theo tên, địa chỉ trong biên bản xác minh của Chấp hành viên. Đối với cá nhân là người không quốc tịch cư trú tại Việt Nam: kê khai đầy đủ họ và tên theo Thẻ thường trú; số Thẻ thường trú; trong trường hợp không có Thẻ thường trú thì kê khai theo tên, địa chỉ của cá nhân đó được ghi trong bản án, quyết định của Toà án được thi hành hoặc kê khai theo tên, địa chỉ trong biên bản xác minh của Chấp hành viên.

+ Đối với pháp nhân có đăng ký kinh doanh: Kê khai tên theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; số Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Đối với pháp nhân không có đăng ký kinh doanh: kê khai tên theo quyết định thành lập hoặc giấy phép đầu tư (nếu là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài), số quyết định thành lập hoặc số giấy phép đầu tư.

- Phương thức thực hiện thông báo về việc kê biên tài sản và yêu cầu cung cấp thông tin của Chấp hành viên bằng việc:

+ Nộp trực tiếp tại Trung tâm Đăng ký.

+ Gửi qua fax tới Trung tâm Đăng ký.

+ Gửi qua đường bưu điện tới Trung tâm Đăng ký trong trường hợp Chấp hành viên của cơ quan thi hành án quân khu, cơ quan thi hành án cấp huyện thuộc khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa mà không có điều kiện gửi trực tiếp hoặc gửi qua fax.

Trung tâm Đăng ký từ chối tiếp nhận Văn bản thông báo về việc kê biên tài sản khi có một trong các căn cứ là văn bản thông báo về việc kê biên tài sản không có đầy đủ các nội dung kê khai theo mẫu ban hành kèm theo Thông tư này; không thuộc thẩm quyền của Trung tâm Đăng ký; khi phát hiện có thông báo về việc kê biên tài sản trùng lặp với văn bản đã tiếp nhận trước đó; yêu cầu thay đổi nội dung đã thông báo, yêu cầu sửa chữa sai sót, yêu cầu gia hạn, yêu cầu xoá thông báo về việc kê biên tài sản không có trong Hệ thống dữ liệu của Trung tâm Đăng ký. Trung tâm Đăng ký từ chối cung cấp thông tin nếu văn bản yêu cầu cung cấp thông tin không có đủ nội dung kê khai theo mẫu quy định.

- Trung tâm Đăng ký có trách nhiệm giải quyết thông báo về việc kê biên tài sản và cung cấp thông tin ngay sau khi nhận được văn bản yêu cầu của tổ chức, cá nhân hoặc trong ngày làm việc; nếu Trung tâm Đăng ký nhận được sau ba giờ chiều, thì giải quyết xong trong ngày làm việc tiếp theo. Trong trường hợp phải kéo dài thời hạn, thì cũng không quá ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được các văn bản nêu trên hợp lệ.

Việc thông báo về kê biên tài sản và xác minh về tài sản dự định kê biên của Chấp hành viên không phải chịu lệ phí và phí.

- Trình tự, thủ tục thông báo về việc kê biên tài sản: Chấp hành viên nộp Văn bản thông báo về việc kê biên tài sản theo một trong các phương thức quy định. Sau khi nhận Văn bản thông báo về việc kê biên tài sản, Đăng ký viên kiểm tra và ghi thời điểm nhận thông báo (giờ, phút, ngày, tháng, năm), nếu văn bản đó không thuộc một trong các trường hợp từ chối. Đăng ký viên phải kịp thời nhập các nội dung kê khai trong Văn bản thông báo về việc kê biên tài sản vào Hệ thống dữ liệu. Trong thời hạn quy định, Trung tâm Đăng ký chứng nhận vào bản sao của Văn bản thông báo về việc kê biên tài sản và trao trực tiếp cho Chấp hành viên tại Trung tâm Đăng ký hoặc gửi qua đường bưu điện, tùy theo yêu cầu của viên hành viên.

Nếu Trung tâm Đăng ký phát hiện có giao dịch, hợp đồng được đăng ký theo tên của người phải thi hành án trong thời gian từ khi Chấp hành viên xác minh về tài sản dự định kê biên đến khi Trung tâm Đăng ký nhận được Văn bản thông báo về việc kê biên tài sản thì Trung tâm Đăng ký thông báo bằng văn bản cho Chấp hành viên về các giao dịch, hợp đồng đó cùng với việc cấp bản sao của Văn bản thông báo về việc kê biên tài sản.

- Thay đổi nội dung, gia hạn thời hạn, sửa chữa sai sót và xoáthông báo về kê biên tài sản thi hành án:

+ Trong thời hạn còn hiệu lực của việc thông báo về kê biên tài sản, Chấp hành viên gửi Văn bản yêu cầu thay đổi nội dung đã thông báo về kê biên tài sản thi hành án khi có một trong các căn cứ sau đây:Rút bớt, thay thế hoặc bổ sung tài sản so với số tài sản đã nêu trong Văn bản thông báo về việc kê biên tài sản mà Chấp hành viên đã gửi cho Trung tâm Đăng ký. Thay đổi thông tin về tên, địa chỉ hoặc số của giấy tờ xác định tư cách pháp lý của người phải thi hành án. Thay đổi các nội dung khác đã thông báo.

+ Chấp hành viên phải gửi văn bản yêu cầu gia hạn thông báo về việc kê biên tài sản thi hành án cho Trung tâm Đăng ký trước ngày chấm dứt thời hạn có hiệu lực của thông báo về việc kê biên tài sản thi hành án, nếu đến thời điểm đó mà tài sản kê biên chưa được xử lý hoặc giải toả kê biên; trong trường hợp hết ngày chấm dứt thời hạn có hiệu lực của việc thông báo đó mà Trung tâm Đăng ký không nhận được Văn bản yêu cầu gia hạn nêu trên thì có quyền tự động xoá thông báo về việc kê biên tài sản thi hành án.

+ Trong trường hợp Chấp hành viên phát hiện có sai sót trong thông báo về việc kê biên tài sản thì gửi Văn bản yêu cầu sửa chữa sai sót nội dung thông báo về kê biên tài sản thi hành án.

Trường hợp phát hiện có sai sót trong Hệ thống dữ liệu do lỗi của Đăng ký viên thì Đăng ký viên phải kịp thời báo cáo Giám đốc Trung tâm Đăng ký xem xét, quyết định việc chỉnh lý thông tin và gửi văn bản thông báo về việc chỉnh lý thông tin đó cho Chấp hành viên.

+ Trong thời hạn không quá ba ngày làm việc kể từ ngày giải toả việc kê biên tài sản hoặc hoàn tất việc xử lý tài sản kê biên, Chấp hành viên phải gửi Văn bản yêu cầu xoá thông báo về kê biên tài sản thi hành án.

Khi chấm dứt thời hạn có hiệu lực của thông báo về việc kê biên tài sản thi hành án mà Trung tâm Đăng ký không nhận được Văn bản yêu cầu xoá thông báo về kê biên tài sản thi hành án hoặc Văn bản yêu cầu gia hạn thông báo về việc kê biên tài sản thi hành án thì Trung tâm Đăng ký tự động xoá thông báo về việc kê biên tài sản thi hành án.

c) Trong trường hợp người phải thi hành án, người được thi hành án, người có quyền, nghĩa vụ liên quan đang chấp hành hình phạt tù thì Chấp hành viên thực hiện việc thông báo các quyết định, giấy báo về thi hành án cho những người đó thông qua giám thị trại giam theo quy định tại khoản 3 Điều 21 Nghị định số 173/2004/NĐ-CP ngày 30/9/2004 của Chính phủ.

4.3. Thông báo về định giá tài sản

Trước khi định giá tài sản, Chấp hành viên phải thông báo về việc định giá tài sản cho những người được thông báo. Nội dung thông báo về định giá tài sản phải cụ thể về thời gian, địa điểm, tài sản định giá.

Đối với việc định giá quyền sử dụng đất thì ít nhất ba ngày làm việc trước khi định giá, Chấp hành viên phải thông báo bằng văn bản cho Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp biết; thông báo cho người phải thi hành án, người được thi hành án, người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến quyền sử dụng đất đã kê biên biết về thời gian, địa điểm Hội đồng định giá làm việc để tham gia ý kiến vào việc định giá.

4.4. Thông báo về bán tài sản

Tuỳ hình thức bán tài sản (bán đấu giá thông qua Trung tâm dịch vụ bán đấu giá hoặc bán tài sản do cơ quan thi hành án thực hiện) mà tiến hành thông báo với thời hạn và nội dung phù hợp.

Trường hợp bán tài sản theo hình thức đấu giá thì phải thực hiện việc thông báo bán đấu giá tài sản theo các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự và quy định tại Điều 12 Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18/01/2005 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản. Theo đó, người bán đấu giá tài sản phải niêm yết việc bán đấu giá tài sản tại nơi bán đấu giá, nơi trưng bày tài sản, nơi đặt trụ sở của người bán đấu giá tài sản, nơi có bất động sản bán đấu giá chậm nhất là bảy ngày đối với động sản, ba mươi ngày đối với bất động sản trước ngày mở cuộc bán đấu giá tài sản. Trong trường hợp người có tài sản bán đấu giá có yêu cầu thì thời hạn niêm yết việc bán đấu giá tài sản có thể rút ngắn theo thoả thuận của các bên.

Đối với tài sản bán đấu giá là động sản có giá khởi điểm từ mười triệu đồng trở lên và bất động sản thì đồng thời với việc niêm yết, người bán đấu giá tài sản phải thông báo công khai ít nhất hai lần, mỗi lần cách nhau ba ngày trên phương tiện thông tin đại chúng của Trung ương hoặc địa phương về việc bán đấu giá tài sản. Thời hạn thông báo công khai được thực hiện theo quy định nêu trên.

Việc thông báo công khai trên phương tiện thông tin đại chúng cũng được thực hiện đối với tài sản bán đấu giá là động sản có giá khởi điểm dưới mười triệu đồng, nếu người có tài sản bán đấu giá yêu cầu. Niêm yết, thông báo công khai về việc bán đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất để thi hành án được thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.

Niêm yết, thông báo công khai về bán đấu giá tài sản có các nội dung chủ yếu sau đây:

- Tên địa chỉ của người bán đấu giá tài sản.

- Thời gian, địa điểm bán đấu giá tài sản.

- Danh mục tài sản, số lượng, chất lượng của tài sản bán đấu giá.

- Giá khởi điểm của tài sản bán đấu giá.

- Địa điểm, thời hạn trưng bày tài sản bán đấu giá.

- Địa điểm, thời hạn tham khảo hồ sơ tài sản bán đấu giá.

- Địa điểm, thời hạn đăng ký mua tài sản bán đấu giá.

- Những thông tin cần thiết khác liên quan đến tài sản bán đấu giá, gồm cả những thông tin mà người có tài sản bán đấu giá yêu cầu thông báo công khai.

4.5. Thông báo về nhận tiền, tài sản

Tiền, tài sản do cơ quan thi hành án đã thu được thì phải thực hiện việc thanh toán hoặc trả cho những người được nhận. Khi thực hiện việc thông báo về nhận tiền, tài sản, cơ quan thi hành án phải lưu ý một số trường hợp sau đây:

- Trong trường hợp một bản án, quyết định có nhiều khoản phải thi hành hoặc trường hợp người phải thi hành án phải thi hành nhiều bản án, quyết định của Toà án, nhưng chỉ có một số người làm đơn yêu cầu thi hành mà tài sản của người phải thi hành án không đủ để thi hành nghĩa vụ tài sản theo các bản án, quyết định của Toà án thì cơ quan thi hành án phải thông báo và ấn định thời hạn không quá một tháng cho những người được thi hành án khác về quyền yêu cầu thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 27 Nghị định số 173/2004/NĐ-CP ngày 30/9/2004 của Chính phủ và hướng dẫn tại mục 15.3 Công văn số 404/TP-THA ngày 24/02/2005 của Bộ Tư pháp.

- Đối với khoản tiền người phải thi hành án tự nguyện nộp nhưng người được thi hành án không nhận thì trong thời hạn không quá mười ngày làm việc kể từ ngày thu được số tiền, tài sản do người phải thi hành án nộp, cơ quan thi hành án thông báo cho người được thi hành án đến nhận theo hướng dẫn tại mục 10.2 Công văn số 404/TP-THA ngày 24/02/2005 của Bộ Tư pháp. Hết thời hạn một tháng kể từ ngày thông báo mà người được thi hành án không nhận thì cơ quan thi hành án làm thủ tục gửi tiền tiết kiệm, giữ tài sản tại kho của cơ quan thi hành án.

Đối với những khoản tiền khác chưa xác định được địa chỉ của người nhận hoặc đã có báo gọi nhưng đương sự chưa đến nhận, mà trong thời hạn một tháng kể từ ngày thông báo mà đương sự không đến nhận, thì cơ quan thi hành án làm thủ tục đứng tên gửi số tiền đó vào Ngân hàng theo loại tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn. Đồng thời mở sổ theo dõi ghi thông tin về sổ tiết kiệm cùng với tên người được thi hành án, số ngày, tháng, năm của bản án hay quyết định thi hành án. Hết thời hạn ba năm kể từ ngày thông báo mà người được thi hành án không đến nhận thì cơ quan thi hành án làm thủ tục chuyển nộp sung công quỹ số tiền, tài sản đó vào Ngân sách Nhà nước.    

- Đối với trường hợp quy định tại khoản điểm 3.2.1 khoản 3 mục III Thông tư số 67/2007/TT-BTP ngày 5/7/2007 của Bộ Tư pháp, Chấp hành viên viết giấy báo cho đương sự đến trụ sở cơ quan thi hành án, yêu cầu kế toán và thủ quỹ thi hành án làm thủ tục chi trả tiền cho họ. Trong giấy báo cần ghi rõ: yêu cầu đương sự khi đến nhận tiền phải mang theo chứng minh nhân dân hoặc giấy tờ tuỳ thân có xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trường hợp uỷ quyền cho người khác nhận thay phải có giấy uỷ quyền hợp pháp kèm theo chứng minh nhân dân hoặc giấy tờ tuỳ thân có xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.    

5. Nghĩa vụ, trách nhiệm và vấn đề xử lý vi phạm thông báo về thi hành án

- Người được thông báo có nghĩa vụ nhận thông báo và có trách nhiệm về việc cố tình không nhận thông báo. Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 quy định trách nhiệm của người được thông báo trong việc nhận thông báo, theo đó người được thông báo có trách nhiệm nhận thông báo, việc không nhận thông báo hoặc đã được thông báo hợp lệ mà không có mặt tại nơi thi hành án thì họ không còn quyền khiếu nại về việc không được thông báo hoặc không được thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình.

Trong trường hợp người phải thi hành án cố tình không nhận giấy báo, giấy triệu tập của cơ quan thi hành án thì bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 50.000 đồng đến 200.000 đồng theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 7 Nghị định số 76/2006/NĐ-CP ngày 02/8/2006 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp.

- Tuỳ theo mức độ vi phạm và hậu quả xảy ra mà người có nghĩa vụ thông báo về thi hành án có thể bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính, truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp người có nghĩa vụ thực hiện thông báo về thi hành án mà gây thiệt hại thì phải bồi thường. Mức bồi thường căn cứ vào thực tế thiệt hại phát sinh.

Đối với người có nghĩa vụ thực hiện thông báo về thi hành án mà gây thiệt hại không phải là cán bộ, công chức thì thủ tục giải quyết bồi thường thiệt hại thực hiện theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

6. Chi phí thông báo về thi hành án

Việc thông báo về thi hành án trong từng trường hợp cụ thể phát sinh kinh phí nhất định. Có trường hợp tốn kém nhiều chi phí, nhưng cũng có trường hợp chi phí thông báo về thi hành án không nhiều, do vậy, cơ quan thi hành án phải xác định đúng mức chi và thanh toán đúng kinh phí từ nguồn chi cho từng việc thông báo về thi hành án.

6.1. Đối tượng phải chịu chi phí thông báo về thi hành án

- Đối với các khoản chi thông báo về cưỡng chế thi hành án, thì đây là một khoản chi phí cưỡng chế thi hành án, vì thế tuỳ từng trường hợp cụ thể, cơ quan thi hành án xác định trên cơ sở đối tượng phải chịu chi phí cưỡng chế thi hành án là người phải thi hành án hoặc người được thi hành án hoặc ngân sách nhà nước theo quy định tại Điều 38 Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004, Điều 28 Nghị định số 173/2004/NĐ-CP ngày 30/9/2004 của Chính phủ và hướng dẫn tại khoản 2, khoản 3 Thông tư liên tịch số 68/2006/TTLT-BTC-BTP ngày 26/7/2006 của Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp hướng dẫn cơ chế quản lý tài chính về kinh phí tổ chức cưỡng chế thi hành án dân sự.

Các khoản chi phí thông báo về cưỡng chế thi hành án theo quy định tại điểm d khoản 1 mục II Thông tư liên tịch số 68/2006/TTLT-BTC-BTP nêu trên, gồm có: Chi thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng (truyền hình, đài phát thanh, báo chí); chi cho những người có trách nhiệm tham gia vào buổi thông báo cưỡng chế thi hành án (cán bộ thi hành án, đại diện chính quyền địa phương, đại diện tổ chức xã hội và các thành phần khác).

- Đối với các khoản khác chi thông báo về thi hành án được thanh toán từ kinh phí của cơ quan thi hành án do ngân sách nhà nước cấp hoặc khoản thu hợp pháp khác (phí thi hành án).

6.2. Mức chi thông báo về thi hành án

- Trong hoạt động thi hành án, một số khoản chi có tính chất đặc thù, trong đó có khoản chi bồi dưỡng cho các đối tượng tham gia vào quá trình thông báo về thi hành án. Các đối tượng không hưởng lương từ ngân sách nhà nước khi tham gia vào quá trình thông báo về thi hành án được bồi dưỡng mức chi tối đa 25.000 đồng/người/buổi,nhưng nếu đã được hưởng phụ cấp lưu trú theo quy định thì không hưởng mức chi bồi dưỡng này.

- Các chi phí khác về thông báo về thi hành án được thanh toán căn cứ theo hợp đồng, hoá đơn, chứng từ chi tiêu thực tế, hợp pháp, hợp lệ theo quy định và được Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phê duyệt.

SOURCE: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ BỘ TƯ PHÁP

Trích dẫn từ: http://tha.moj.gov.vn/web/guest/home?p_p_id=cmsviewportlet_WAR_vsi_portlets_INSTANCE_XbBg&p_p_action=1&p_p_state=normal&p_p_mode=view&p_p_col_id=column-2&p_p_col_pos=0&p_p_col_count=1&_cmsviewportlet_WAR_vsi_portlets_INSTANCE_XbBg_struts_action=%2Fcmsviewportlet%2Fview&_cmsviewportlet_WAR_vsi_portlets_INSTANCE_XbBg_arcId=3977