Thứ Hai, 30 tháng 9, 2013

Nghiệp Báo Tài Chánh



Nguyễn-Xuân Nghĩa - Người Việt 131001
"Kinh Tế Cũng Là Chính Trị"

Những Món Nợ Sẽ Phải Trả - Bao Giờ? Ai Trả Ai?  

* Quốc hội Hoa Kỳ họp đến nửa khuya ngày 30 mà không xong *


Trận đấu về ngân sách Hoa Kỳ là biến cố xủi bọt, với cao điểm là một phần bộ máy công quyền liên bang có thể bị đóng vì hết tiền mà chưa được vay thêm. Chìm sâu ở bên dưới là nhiều khoản nợ chưa biết làm sao thanh toán, chuyện nghiệp báo tài chánh của nước Mỹ....


Tài khóa ngân sách liên bang Hoa Kỳ khởi sự từ Tháng 10 năm này đến hết Tháng Chín năm tới. Từ mấy chục năm nay, ngân sách thường chi nhiều hơn thu, khi thiếu hụt thì phải đi vay để tài trợ số bội chi. Khoản công trái tích lũy đó nay lên tới gần 17 ngàn tỷ đô la, hơn Tổng sản lượng là cỡ 16 ngàn 700 tỷ, trong số này có 12 ngàn tỷ là nợ tư nhân. Về phần chi, có nhiều khoản gọi là "bắt buộc" (entitlements) do các đạo luật về nghĩa vụ của nhà nước được ban hành từ trước và nhiều khoản "nhiệm ý" theo lối liệu cơm gắp mắm (discretionary). Thật ra, nhiều khoản gọi là nhiệm ý mà vẫn là bắt buộc, như để tài trợ bộ máy công lý, trật tự công cộng và quốc phòng.

Từ năm 1976, Quốc hội tự đặt ra kỷ luật là biểu quyết từng đạo luật cho phép vay tiền thanh toán phần khiếm hụt, nhưng lại chẳng tôn trọng kỷ luật đó nên thường xuyên trễ hạn. Từ năm 1981, ngân sách liên bang Mỹ bị 10 lần cạn tiền mà Quốc hội trẽ hạn cho phép vay thêm. Chín lần đã xảy ra mà ít gây chấn động vì rơi vào mấy ngày cuối tuần khi bộ máy công quyền đóng cửa. Lần nghiêm trọng nhất kéo dài 26 ngày từ 1995 qua 1996 sau khi đảng Cộng Hoà đắc cử đa số tại Hạ viện năm 1994 và đòi quân bình ngân sách.

Nhờ đó tình hình chi thu được quân bình trong bốn năm liền, nhưng cũng vì đó mà đảng Cộng Hoà bị mang tiếng là quá khích vì kép xập chính quyền.

Một vụ nổi loạn tương tự xảy ra khi Cộng Hoà chiếm lại đa số ở Hạ viện sau cuộc bầu cử năm 2010, và dẫn tới trận đấu ngân sách vào mùa Hè năm 2011 khiến trái phiếu Mỹ bị đánh sụt giá trị vào ngày năm Tháng Tám, kéo dài thành "vực thẳm ngân sách" (fiscal cliff) năm ngoái và hiện tượng "cầm cố ngân sách" (sequestration) đầu năm nay. Tuần này, trận đấu tái diễn, lại bị lồng vào việc thi hành đạo luật cải tổ chế độ bảo dưỡng chính trị gọi là "Obamacare", với việc thay đổi quy chế mua bảo hiểm "Obamacare Exchange" kể từ mùng một Tháng 10.

Đấy là phần bối cảnh của những lý luận lẫn đòn phép chính trị giữa Hành pháp và Thượng viện do đảng Dân Chủ kiểm soát và Hạ viện trong tay đảng Cộng Hoà.

Một chi tiết đáng nhớ khác là nhiệm kỳ của các dân biểu tại Hạ viện chỉ có hai năm, của Tổng thống là bốn năm và Nghị sĩ tại Thượng viện là sáu năm. Khi bước vào trận, họ nghĩ tới cử tri và lần xin phiếu sắp tới. Nhưng đa số cử tri không biết - chính giới không nói - về tình hình chi thu thật sự của công quyền. Ngoài khoản nợ tích lũy vì bội chi ngân sách, có nhiều cam kết khác mà chính quyền phải thanh toán. Chuyện này nghiêm trọng hơn việc chính quyền bị đóng cửa mấy ngày, vì có thể làm kinh tế sụp đổ trong vài chục năm nữa.

Khốn nỗi vài chục năm nữa là chân trời xa lạ cho các chính khách.


***

Người đầu tiên báo động chuyện đó là Tổng thống Bill Clinton trong bài diễn văn về Tình hình Liên bang vào đầu năm 1999 khi ngân sách quốc gia đã quân bình, và ông vừa nhắc lại vào Tháng Năm vừa qua. Ông ta có thẩm quyền vì là người sinh vào thời "hậu chiến", từ 1946 đến 1964, là thế hệ "Babyboomer" đang theo nhau về hưu để sống nhờ tiền hưu liễm và bảo hiểm đã đóng góp từ mấy chục năm qua vào các quỹ An sinh Xã hội Social Security, Bảo hiểm Y tế Medicare và Trợ cấp Y tế Medicaid. Họ là những chủ nợ sẽ bị quịt!

Hôm 17 vừa qua, cơ quan nghiên cứu độc lập của Quốc hội về tình hình tài chánh quốc gia (Congressional Budget Office hay CBO) vừa công bố một phúc trình được đa số các chính trị gia kê vào bàn tọa mà không nhắc tới. Họ chỉ nói đến cái "được" trong ngắn hạn là bội chi ngân sách năm nay, tính đến ngày 30 Tháng Chín, sẽ ở khoảng 642 tỷ, mức thấp nhất kể từ năm 2008 khi có khủng hoảng tài chánh và suy trầm kinh tế. Vin vào thành quả ngắn hạn đó trong trận đấu năm nay về ngân sách, họ bỏ qua những dự báo u ám khác của CBO.

Cơ quan này cho biết là nếu không cải tổ chế độ hiện hành thì từ khoảng 73% hiện nay, gánh công trái của chính quyền liên bang với tư nhân sẽ chiếm 100% Tổng sản lượng quốc gia vào năm 2038. Tức là trong 25 năm tới, cả năm nước Mỹ chi sản xuất đủ tiền cho gánh nợ.

Nhưng sự thật còn tệ hơn dự báo này.

Theo kỹ thuật thông thường, CBO vạch ra kịch bản chính, gọi là "baseline scenario" để dự phóng số chi thu vào tương lai dài hạn và đưa ra lời cảnh báo đó. Song song, họ có kịch bản chi thu khác, có thể thực tế hơn, để dự đoán là năm 2038, gánh công trái sẽ lên tới 190% Tổng sản lượng. Lý do chính là tình trạng lão hóa của thành phần Babyboomer.

Từ gần 50 triệu hiện nay, thành phần trên tuổi 65 sẽ lên tới 79 triệu vào năm 2038. Trong 25 năm đó, thành phần ở tuổi lao động từ 18 đến 64 tuổi có tăng, mà chậm hơn, từ 198 lên tới gần 215 triệu. Tỷ số "lệ thuộc" giữa người cao niên và thành phần sung sức sẽ tăng. Hiện nay, một người cao niên có 4,4 người sung sức chung sức đóng góp, đến năm 2038, họ chỉ có thể trông cậy vào 2,7 người thôi. Theo định nghĩa, giới cao niên đã sản xuất ít hơn, sốn thọ hơn mà lại cần được trợ giúp nhiều hơn về sức khoẻ sau một đời đóng góp cho sự giàu mạnh của quốc gia.

Nhưng khi ấy, quốc gia lại hết tiền.

Xưa nay, cơ quan CBO thường dự toán với chân trời 10 năm và giúp các chính trị gia đẩy vấn đề vào tương lai, bên ngoài hạn kỳ tranh cử của họ. Với dự báo về tình hình 25 năm tới, phúc trình CBO cho thấy một sự cải thiện trong ngắn hạn - bội chi đang giảm – nhưng sau 10 năm tới là sự bùng phát của gánh nợ. Hàng năm, Hoa Kỳ sẽ vay nhiều hơn đà gia tăng của sản lượng kinh tế và nếu chưa trả vốn thì cũng trả tiền lời, khoản tiền lời đó là một mục chi bắt buộc và sẽ tăng vọt nếu lãi suất trái phiếu bung khỏi cái mức quá thấp của mấy năm qua.

Người ta cứ tưởng là đồng nội tệ của Mỹ là ngoại tệ phổ biến của toàn cầu và nước Mỹ có toàn quyền in bạc để trả nợ, hoặc quịt nợ thiên hạ mà khỏi xin phép cơ chế quốc tế nào. Nhưng in bạc trả nợ thì cũng như rót dầu vào lửa, hoặc uống nước biển cho đỡ khát vì khiến tiền lời sẽ tăng. Khi các chủ nợ hết tin vào trị giá đồng bạc mà tìm cách bán tháo thì phân lời trái phiếu cũng vọt lên trời. Kịch bản thực tế của CBO nói đến chuyện tất yếu này.

Lúc đó, chính quyền sẽ lại bội ước với loại "chủ nợ không lối thoát", là giới cao niên: đẩy lui tuổi được lãnh tiền hưu sẽ bị giảm của quỹ An sinh Xã hội, hoặc đổi giá biểu hay thành phần dược phẩm được quỹ Medicare thanh toán. Nếu không, phải tăng thuế để tăng thu với rủi ro đánh sụt sản lượng kinh tế.... Hoa Kỳ chỉ còn 10 năm để giải quyết bài toán này.  

Năm 1999, ông Clinton kêu gọi Quốc hội lãnh trách nhiệm với thế kỷ 21 để cải tổ hệ thống ngân sách. Quốc hội không nhúc nhích mà cù cưa chuyện được mất hàng năm vì nhiều người chỉ nghĩ đến lịch bầu cử. Mười năm sẽ đến rất nhanh và sau đó là nghiệp báo tài chánh khi các chính khách phóng tay đi vay để ai đó sẽ trả sau này. Khi bỏ phiếu, ai không nhớ đến chuyện đó thì mặc nhiên lãnh số phận của con cừu sẽ bị gọt lông.

Thứ Tư, 25 tháng 9, 2013

Những Liều Thuốc Đổ Bệnh

Vũ Hoàng & Nguyễn Xuân Nghĩa, RFA Ngày 130925
Diễn đàn Kinh tế

Nhân cơn khủng hoảng, giới chính trị vén tay bốc thuốc lung tung.... 

044_B36528728-305.jpg
* Ảnh minh họa một hôp đựng thuốc với tiền đô la Mỹ bên trong. - AFP photo*


Năm năm sau vụ khủng hoảng tài chính tại Hoa Kỳ mà cao điểm là sự sụp đổ của tập đoàn đầu tư tài chính Lehman Brothers vào ngày 15 Tháng Chín năm 2008, tình hình kinh tế Mỹ đã có vẻ khả quan hơn. Nhưng tại sao hai năm sau vụ khủng hoảng về ngân sách khiến giá trị trái phiếu của Hoa Kỳ bị tụt hạng vào đầu Tháng Tám năm 2011, nước Mỹ lại có thể gặp khủng hoảng nữa khi ngân sách liên bang bị phong tỏa vì không được nâng định mức đi vay? Diễn đàn Kinh tế tìm hiểu chuyện này và thấy ra hiện tượng gọi là "hậu quả bất lường" của chính sách kinh tế.


Từ chuyện nước Mỹ...


Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nghĩa. Vụ khủng hoảng tại Hoa Kỳ năm 2008 khiến hàng loạt tập đoàn tài chính Mỹ bị rúng động và chính phủ phải ban hành đạo luật cấp cứu với 700 tỷ đô la đắp vốn cho các cơ sở lâm nạn. Sau đó tình hình có dấu hiệu khả quan hơn và các ngân hàng lớn nhất của Mỹ nay thu lời rất cao.

Trận khủng hoảng cũng khiến thế giới bị Tổng suy trầm và Hoa Kỳ có nhiều biện pháp kích thích khiến bội chi ngân sách tăng vọt cùng gánh nặng công trái lên tới mức kỷ lục. Nạn bội chi và đi vay mới dẫn tới vụ khủng hoảng chính trị vào Tháng Tám năm 2011 khi Quốc hội Mỹ không thể nhất trí về việc giảm chi và tái quân bình ngân sách.

Tuần qua, nguy cơ ách tắc chính trị này lại tái diễn với một dự luật được biểu quyết tại Hạ viện. Khi tổng kết về chuyện khủng hoảng tài chính, suy trầm kinh tế và ách tắc chính trị, ta cần nhìn ra cả hai mặt tích cực và tiêu cực về chính sách ứng phó vì có thể rút tỉa bài học hữu ích cho xứ khác, vào thời khác. Theo dõi câu chuyện này từ nhiều năm nay, ông nghĩ rằng thính giả của chúng ta nên quan tâm nhất đến bài học nào?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Vì chúng ta làm việc tại Hoa Kỳ và nhìn nước Mỹ từ nhiều giác độ khác nhau nên có thể gây ấn tượng sai lầm rằng mình luôn luôn coi Hoa Kỳ là nhất. Sự thật nó không đơn giản như vậy và câu hỏi của ông là có ích vì giúp ta nghĩ đến các "hậu quả bất lường" của chính sách ứng phó. Tôi xin được gọi đó là bài học về "những liều thuốc đổ bệnh".

Vũ Hoàng: Chúng ta sẽ khởi đi từ những liều thuốc này. Thưa ông, trước hết vì khủng hoảng và cần phải bốc thuốc chữa bệnh?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi xin lùi về thật xa để nói đến đặc tính văn hóa, hoặc loại quy luật bất thành văn của xã hội Hoa Kỳ. Quốc gia này quá mới quá trẻ và có tiềm năng quá lớn nên nói chung người dân lạc quan cho rằng việc gì họ cũng làm hơn được xứ khác. Nhưng vì quá trẻ nên từ tình trạng lạc quan hồ hởi họ lại dễ hốt hoảng khi hữu sự và có phản ứng thái quá.

- Bây giờ, về nguyên nhân khủng hoảng, tổng kết lại các công trình nghiên cứu ta có thể thấy ra sự lạc quan sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc năm 1991 và thế giới được "nhất thể hóa", toàn cầu hóa với trao đổi hàng hóa, dịch vụ và tư bản được giải tỏa tự do hơn. Thứ hai, nhờ tiến bộ khoa học, thị trường phát minh ra nhiều phương thức đầu tư tài chính tân kỳ mà chính trường không kịp nhìn ra rủi ro để ban hành luật lệ giám sát. Và chính trường cũng lạc quan từ hơn 20 năm trước khi nhà nước khuyến khích thị trường phát triển đầu tư về gia cư để giàu nghèo gì cũng dễ mua nhà và khi giải toả chế độ kiểm soát ngân hàng từ năm 1999.

Quốc gia này quá mới quá trẻ và có tiềm năng quá lớn nên nói chung người dân lạc quan cho rằng việc gì họ cũng làm hơn được xứ khác. Nguyễn-Xuân Nghĩa

- Trong thế giới rộng mở đó, tiết kiệm dư dôi từ Á Châu chảy vào Mỹ kiếm lời có làm hạ lãi suất và càng gây ra tinh thần hồ hởi khiến người ta đi vay dễ dàng và vay quá sức trả, để đầu tư vào những ngành có quá nhiều rủi ro mà cả giới đầu tư, ngân hàng và nhà nước đều đánh giá sai. Tức là trong nhiều thập niên liên tục, người ta gây ra những thất quân bình nghiêm trọng mà lạc quan tin rằng mọi sự vẫn an toàn. Nếu nhớ lại lời phát biểu của các giới chức hữu trách từ những năm 2006 đến đầu năm 2008 thì mình thấy ra tinh thần lạc quan phổ biến ấy.

Vũ Hoàng: Chúng ta bước qua giai đoạn tâm lý đảo ngược, từ lạc quan biến ra hốt hoảng như ông vừa nói, hoặc đã trình bày trên diễn đàn này từ hơn năm năm trước.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ là nếu không chấn chỉnh thì từ đầu cái gì nghiêng quá sẽ đổ. Khi trái bóng gia cư, một hậu quả của sự lạc quan, bắt đầu xì từ năm 2006 thì những bất toàn của cả hệ thống phức tạp này được phơi bày. Nó dẫn tới sự khủng hoảng của nhiều ngân hàng Âu Châu từ năm 2007 đã lỡ tài trợ quá nhiều cho loại nghiệp vụ quá rủi ro được gói kín trong những kén nợ bị ung thối. Từ đó mới có nạn ách tắc tín dụng và dội ngược về Mỹ thành vụ sụp đổ của tập đoàn Lehman Brothers và hàng loạt doanh nghiệp tài chính hàng đầu của nước Mỹ.

- Vì đây là loại cơ sở quá lớn nên nếu sụp đổ thì sẽ gieo họa cho các thân chủ và nhiều ngành khác nên chính quyền mới lúng túng về cái lẽ nên cứu hay không, cứu ai mà bỏ ai và làm sao cứu khi các doanh nghiệp tài chính đều mất nợ, kẹt vốn và thiếu thanh khoản mua lại tài sản của các cơ sở lâm nạn? Chính là sự lúng túng đó của chính trường sau khi đã chểnh mảng trong nhiệm vụ giám sát mới gây hốt hoảng cho thị trường. Và vụ khủng hoảng tín dụng gia cư trị giá mấy trăm tỷ và tập trung ở bốn năm tiểu bang biến thành khủng hoảng rộng lớn trên cả nước và lan ra toàn cầu thành Tổng suy trầm. Từ nạn hồ hởi sảng, người ta hốt hoảng bậy và lãnh hậu quả là tài sản người dân bị mất 11 ngàn tỷ đô la, kinh tế sa sút, thất nghiệp vượt 10%.

Vũ Hoàng: Theo như cách ông trình bày thì chính là phản ứng thái quá này mới dẫn tới những chính sách ứng phó mà ông gọi là "liều thuốc đổ bệnh". Có phải như vậy không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa rằng đúng như vậy vì năm 2008, Hoa Kỳ có tổng tuyển cử để bầu lại cả Hành pháp lẫn Lập pháp. Trong tình trạng hoang mang chung, ta rất dễ quên phần trách nhiệm của mình mà cứ chỉ ra những sai lầm khiếm khuyết của người khác. Sai lầm nặng nhất, bị quy trách cho mọi chuyện chính là thị trường hay lòng tham của ai khác. Và đấy là lúc người ta có phản ứng thái quá là tin rằng nhà nước sẽ giải quyết được mọi chuyện.

- Kết quả là nhà nước tăng chi, gây khiếm hụt ngân sách và đi vay tới mức kỷ lục nên mới gây ách tắc chính trị về ngân sách năm 2011. Vậy mà kinh tế chưa hồi phục khiến ngân hàng trung ương hạ lãi suất tới sàn và sau đó còn thi hành ba đợt bơm tiền rất hãn hữu gọi là QE để nâng thanh khoản và giảm lãi suất. Tháng Năm vừa qua, khi ngân hàng trung ương Mỹ thông báo có thể giảm dần chính sách bơm tiền kể từ Tháng Chín thì người ta lại hốt hoảng là giai đoạn tiền rẻ sẽ chấm dứt và cổ phiếu sụt giá làm cả thế giới rúng động trong mấy tháng liền.

- Tuần qua, ngân hàng trung ương lại quyết định ngược, rằng tình hình kinh tế chưa khả quan nên sẽ duy trì chính sách bơm tiền khoảng 85 tỷ đô la một tháng thì mọi người lại hoang mang. Giữa khung cảnh đó, cuộc tranh luận về ngân sách tái bùng nổ với dự luật của Hạ viện bên đảng Cộng Hoà là không cho nâng định mức đi vay nếu ngân sách liên bang lại mất tiền thi hành đạo luật cải tổ chế độ bảo dưỡng y tế ban hành từ Tháng Ba năm 2010. Vì đòn phép chính trị này, người ta lại sợ rằng từ đầu Tháng 10, ngân sách Hoa Kỳ bị chặn và hết tiền trả lương công chức!


Bài học cho các nước


033_RIA13-2289768_5184-250.jpg
Từ trái sang: Thủ tướng Dmitry Medvedev, Phó Bộ trưởng Công nghiệp và Thương mại Yury Slyusar tại một cuộc họp của Hội đồng kinh tế tối cao Á-Âu tại Kazakhstan hôm 25/9/2013. Ảnh minh họa. AFP  


Vũ Hoàng: Trong cả một chuỗi vấn đề quá phức tạp đó, chúng ta có thể thấy ra hai chuyện. Thứ nhất là kế hoạch cấp cứu nhằm đẩy lui và không để tái diễn một vụ khủng hoảng tài chính. Thứ hai là kế hoạch kích thích kinh tế để ra khỏi tình trạng suy trầm. Trong hai chuyện có vẻ biệt lập mà thật ra lại có quan hệ hữu cơ gắn bó với nhau thì đâu là những liều thuốc đổ bệnh?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Trước hết về lĩnh vực tài chính ngân hàng, Hoa Kỳ đã bơm tiền chuộc nợ cho các cơ sở lâm nạn và kết quả thành công, các ngân hàng đã có lời và trả lại tiền nợ cho nhà nước. Song song, các cơ chế hữu trách của Mỹ và quốc tế đều bắt hệ thống ngân hàng cải thiện quân bình tài chính qua việc tăng vốn và hạn chế tỷ lệ đi vay để tránh rủi ro.

- Nhưng phần tiêu cực của kế hoạch cấp cứu và ngăn ngừa khủng hoảng tái diễn là chế độ kiểm soát quá chi ly rắc rối, cho đến nay mới chỉ khai triển được chừng 40% nội dung thành điều lệ áp dụng. Nó lại không giải quyết được một vấn đề cực kỳ nghiêm trọng là hiện tượng tập trung tư bản vào loại ngân hàng gọi là "quá lớn nên không thể đổ", dân Mỹ gọi là "too big to fail". Đây là hậu quả bất lường đáng kể nhất, là liều thuốc đổ bệnh khiến cho khủng hoảng sẽ còn có thể tái diễn.

Vũ Hoàng: Xin ông giải thích cho, hiện tượng ngân hàng "quá lớn nên không thể đổ" là gì?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Khi tư bản tài chính tập trung vào một số ngân hàng thì các cơ sở này là trung tâm thu hút và phân phối tiền bạc cho nhiều khu vực kinh tế nên chi phối cả hệ thống. Vì vị trí đó, chúng trở thành loại cơ sở mà nhà nước không thể để cho sụp đổ nên dễ lấy quyết định rủi ro vì hiện tượng "ỷ thế làm liều" trong kinh tế học. Khi vụ khủng hoảng bùng nổ, chính trường Mỹ có đạo luật kiểm soát để không tái diễn nạn tập trung tư bản như xưa.

Nhờ có chế độ dân chủ và tự do báo chí, người dân có quyền phê phán những chuyện đó để rút tỉa bài học cho các cuộc bầu cử về sau. Nguyễn-Xuân Nghĩa
- Nhưng kết quả lại ngược với thực tế là ngày nay các ngân hàng lớn nhất của Mỹ đã quản lý một lượng tài sản còn lớn hơn năm 2009. Giải pháp lý tưởng là có nhiều ngân hàng loại trung bình đi sát thị trường và doanh nghiệp và phải thẩm định rủi ro khi cho vay vì sẽ không được cứu nếu bị lỗ, giải pháp ấy vẫn là lý tưởng. Và việc cấp cứu năm 2010 là liều thuốc đổ bệnh vì vẫn duy trì nạn ỷ thế làm liều. Chuyện này rất dễ xảy ra cho mọi quốc gia, không chỉ riêng tại Hoa Kỳ.

Vũ Hoàng: Sau liều thuốc đổ bệnh trong kế hoạch ngăn ngừa khủng hoảng, thưa ông, đâu là hậu quả bất lường của những kế hoạch kích thích kinh tế đã được áp dụng?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi chỉ có thể tóm lược khái quát về một tình hình quá phức tạp.

- Đó là kinh tế Mỹ đã hồi phục trên nền móng còn bấp bênh. Sau khủng hoảng thì giới đầu tư đã thịnh vượng hơn mà đa số ở dưới thì chưa nên nạn chênh lệch lợi tức hay bất công xã hội vẫn tiếp tục và số người phải lãnh trợ cấp đã lên tới mức kỷ lục nên trở thành gánh nặng ngân sách và gây tranh luận về chính trị. Nói cách khác, người ta kích thích không đúng nơi và tạo cơ hội cho một thiểu số làm giàu rất nhanh trong khi đa số và thành phần trung lưu vẫn bị khó khăn. Hiện tượng tập trung tư bản không chỉ có trong lĩnh vực ngân hàng và là vấn đề nghiêm trọng.

- Thứ hai, sau khi hốt hoảng và trông cậy vào chính quyền, đa số tới 60% dân Mỹ ngày nay lại thấy nhà nước có quá nhiều quyền lực và tỷ lệ tín nhiệm của dân chúng dành cho giới lãnh đạo, nhất là trong Quốc hội, đã sụt tới mức thấp nhất. Liều thuốc đổ bệnh là nhân khi người dân hốt hoảng thì nhà nước mở tầm can thiệp, nâng cao bội chi ngân sách và lại gây nhiều vấn đề khác. Nhờ có chế độ dân chủ và tự do báo chí, người dân có quyền phê phán những chuyện đó để rút tỉa bài học cho các cuộc bầu cử về sau. Kết luận của tôi là Hoa Kỳ là nơi mà mọi người đều có quyền lên tiếng và cảnh báo về những liều thuốc đổ bệnh sau một cơn hốt hoảng!

Vũ Hoàng: Xin cảm ơn ông Nghĩa về cuộc phỏng vấn này.


Thứ Ba, 24 tháng 9, 2013

Khủng Hoảng Tài Chính Hoa Kỳ - Vẫn Còn Rủi Ro

Thanh Hà & Nguyễn Xuân Nghĩa - RFI Ngày 130924
"Tạp Chí Kinh Tế"

Các đại gia gây họa lại khéo lách nhờ các chính khách nên còn giàu hơn trước 


Khủng hoảng tín dụng thứ cấp (subprime) xảy ra từ năm 2007 làm nhiều ngân hàng mất nợ và kẹt vốn - Reuters
* Khủng hoảng tín dụng thứ cấp (subprime) xảy ra từ năm 2007 làm nhiều ngân hàng mất nợ và kẹt vốn - Reuters *



Năm năm sau cuộc khủng hoảng tài chính 2008, các ngân hàng Mỹ chẳng những đã thoát hiểm mà còn giàu thêm. Nhưng rủi ro tai họa vẫn tồn tại vì ngành tài chính không an toàn hơn xưa. Sự phục hồi nhanh chóng của các ngân hàng Mỹ là một tin vui, nhưng hiện vẫn còn quá nhiều mối đe dọa tiềm tàng.

Vào tháng Bảy vừa qua, hàng loạt các ngân hàng Mỹ thông báo kết quả hoạt động. Tất cả các ngân hàng lớn ở bên kia bờ Đại Tây Dương đều làm ăn có lời. JP Morgan Chase, ngân hàng lớn nhất của Mỹ thông báo trong quý hai, lãi 6,5 tỷ đô la. Trong vòng một năm, khoản lãi của ngân hàng này tăng thêm 31 %. Về phần ngân hàng đầu tư Morgan Stanley thì cũng trong quý 2/2013 đã thu vào một khoản tiền lãi hơn 800 triệu đô la, doanh thu lên tới 8,3 tỷ.

Về phần Bank of America, tập đoàn ngân hàng từng suýt bị xóa tên sau cơn bão tài chính 2008 thì chỉ năm năm sau tai họa, đã hoàn toàn bình phục. Tiền lãi trong quý 2/2013 tăng 70 %, đạt 3,6 tỷ đô la. Còn đối với Citigroup từng bị coi là nạn nhân nghiêm trọng nhất của khủng hoảng tín dụng địa ốc năm 2007 thì tiền lãi trong vỏn vẹn ba tháng cũng được tính bằng bạc tỷ. Nhìn rộng ra hơn, tất cả các ngân hàng lớn ở Hoa Kỳ đều đang trong chu kỳ thịnh vượng và mức lời của họ vượt ngoài sự chờ đợi.

Thoạt nhìn, sự phục hồi nhanh chóng và vững mạnh của ngành ngân hàng Mỹ là một tin vui, vì là dấu hiệu cho thấy kinh tế Hoa Kỳ đang bình phục. Tuy nhiên niềm vui đó không được trọn vẹn khi còn quá nhiều mối đe dọa tiềm tàng: mức độ tập trung tài sản và khả năng «lách luật» của các ngân hàng lớn ở Mỹ cao hơn so với 5 năm trước và mầm mống của một cuộc khủng hoảng địa ốc mới bắt đầu manh nha.

Ngày 15/09/2008 Hoa Kỳ bị một vụ khủng hoảng tài chính gây chấn động toàn cầu khi tập đoàn đầu tư Lehman Brothers lập thủ tục khai báo vỡ nợ. Được thành lập từ năm 1850, Lehman Brothers là ngân hàng đầu tư đứng hạng bốn của Mỹ, quản lý một khối tài sản trên toàn cầu trị giá hơn 600 tỷ đô la. Như một trận sóng thần, vụ sụp đổ kéo theo hàng loạt doanh nghiệp tài chính và ngân hàng lớn như AIG, Merrill Lynch, Fannie Mae, Freddie Mac, Wachovia, Washington Mutual, ... gây ra khủng hoảng tín dụng khiến kinh tế toàn cầu bị tổng suy trầm trong hai năm liền. Đây là một vụ khủng hoảng trầm trọng nhất kể từ cuộc khủng hoảng toàn cầu năm 1929-1933.

Trả lời phỏng vấn ban Việt ngữ RFI, chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa từ Hoa Kỳ trước hết nhắc lại nguyên nhân đã dẫn đến trận «đại hồng thủy» tài chính ập xuống thị trường Wall Street cách nay đúng năm năm:

Nguyễn Xuân Nghĩa: Để tìm hiểu về nguyên do, có lẽ phải nói về nhân duyên trong kinh tế. Cái "nhân" là những yếu tố căn bản khiến một điều gì đó sẽ xảy ra. Còn "duyên" là yếu tố thời cơ khiến điều đó xảy ra vào thời điểm này, với cường độ như vậy.

- Trước hết là sự lạc quan của thế giới từ khi chiến tranh lạnh kết thúc cuối năm 1991 và hệ thống tài chánh quốc tế được giải tỏa cho tự do nên tư bản vận chuyển với số lượng cao và tốc độ nhanh hơn. Thứ hai là trong sự chuyển vận đó, tư bản dư dôi nhờ tiết kiệm cao đã chảy vào nơi có hy vọng sinh lời, chủ yếu từ Á châu về Âu Mỹ. Thứ ba là thị trường «chạy» nhanh hơn chính trường: người ta phát minh nhiều phương thức và khí cụ đầu tư mới lạ mà luật lệ kỉểm soát theo không kịp. Thứ tư là Hoa Kỳ giải toả hệ thống kiểm soát ngân hàng từ năm 1999, chủ yếu là hết phân biệt ngân hàng đầu tư với ngân hàng thương mại, và ngân hàng đầu tư không chỉ làm giàu bằng vốn riêng mà còn có thể vay tiền để đánh bạc trên một thị trường có quá nhiều tiền với lãi suất quá rẻ nên ước tính sai mức rủi ro.

- Quan trọng nhất là việc doanh nghiệp, ngân hàng, tư nhân và cả nhà nước, không chỉ tại Hoa Kỳ, đều lạc quan đi vay quá khả năng thanh toán. Ngần ấy lý do đã chậm rãi gây thất quân bình, mà cái gì nghiêng quá thì sẽ đổ. Khi đổ thì không theo lối dây chuyền từ A qua B qua C mà có thể cùng sụp từng mảng.

Còn về cái "duyên", khiến sự sụp đổ hàng loạt lại xảy ra năm 2008, trước tiên là trái bóng gia cư địa ốc đã bể sau năm năm tăng trưởng mạnh tại Mỹ, từ 2002 đến 2006. Trái bóng đó là hiện tượng chung và nhiều nước Âu Châu còn bị nặng hơn. Khi lạc quan hồ hởi vay tiền mua nhà, lại do sự khuyến khích của nhà nước tại Mỹ từ hai chục năm qua để "hữu sản hóa", người ta lấy rủi ro quá lớn với loại tín dụng thứ cấp, subprime, là loại thiếu an toàn. Khi giá nhà hết tăng và bóng bể, khủng hoảng tín dụng thứ cấp xảy ra từ năm 2007 làm nhiều ngân hàng mất nợ và kẹt vốn, kể cả hai đại gia loại bán công của Mỹ chuyên nâng đỡ người đi vay tiền mua nhà, có tỷ số nợ cao gấp 75 lần số vốn riêng, là Fannie Mae và Freddie Mac. Mất bao nhiêu thì họ tính không ra vì lỡ xé vụn các khoản nợ rồi gói kín như cái kén và bán lại cho cả thế giới dưới dạng trái phiếu có tài sản thế chấp. Kén nợ bị ung thối bên trong đến mức nào thì chính ngân hàng và công ty lượng giá trái phiếu cũng không biết. Nôm na là người ta vay tiền để làm chủ nhiều khoản tài sản bấp bênh mà rủi ro trầm trọng đến cỡ nào thì cũng chẳng rõ.

- Thế rồi, như ẩn dụ của giới kinh tế về con chim hoàng yến bị chết dưới hầm có khí độc, con yến đầu tiên đã chết khi ngân hàng BNP Paribas của Pháp bị khủng hoảng vào tháng 8/2007. Sau nhiều ngân hàng khác của Anh, tháng 3/2008 thì ngân hàng đầu tư Bear Sterns của Mỹ phá sản. Chủ yếu là vì kẹt vốn mà vay không được, có muốn bán cho người khác thì chẳng ai mua vì ai cũng kẹt tiền. Ngoải ra, một cái duyên khác là năm 2008, Hoa Kỳ có tổng tuyển cử.

RFI : Anh cho rằng chuyện tổng tuyển cử tại Mỹ cũng liên quan đến vũ khủng hoảng sao?

Nguyễn Xuân Nghĩa: - Khủng hoảng xảy ra khi kinh tế bị suy trầm cuối năm 2007 sau bảy năm tăng trưởng trong thời chiến và khi dân Mỹ lại sắp đi bầu, rồi suy trầm lên tới cao điểm khi có chuyển tiếp quyền lực.

- Triết lý kinh doanh của dân Mỹ là "lời ăn lỗ chịu, chứ không thể đòi nhà nước cấp cứu" nên khi khủng hoảng manh nha từ cuối năm 2007, giới chức hữu trách không nhúc nhích vì tung tiền cứu nợ thì lại gây ra nạn doanh nghiệp ỷ thế làm liều. Khi các đại gia ở mức "lớn không thể đổ được" cũng rung chuyển giữa cuộc tranh cử thì giới chính trị lúng túng vì không cứu lại có thể bị hậu quả tai hại hơn. Khi chính quyền muốn cứu lại không tìm ra khách mua tài sản của các cơ sở lâm nạn. Chưa kể là luật lệ Mỹ không cho ngân hàng trung ương bơm tiền chuộc nợ cho các ngân hàng nếu không được Quốc hội cho phép. Những lúng túng của Bộ Ngân khố, Ngân hàng Trung ương và Quốc hội Mỹ trong hai tuần sau vụ Lehman và gần hai tháng trước ngày bầu cử càng gây hốt hoảng khiến khủng hoảng lan rộng và kéo dài lâu hơn.

- Tóm lại, vụ khủng hoảng trên thị trường tín dụng gia cư chỉ là cái duyên vì có thể làm mất từ 500 đến 700 tỷ đô la chứ không là cái nhân vốn dĩ xuất phát từ nhiều yếu tố sâu xa lâu dài hơn của một thị trường bất cẩn và các cơ quan hữu trách đã chểnh mảng trong nhiệm vụ. Kết cục thì bốn triệu gia đình Mỹ mất nhà và tài sản của dân Mỹ bị mất 11 ngàn tỷ trong hai năm tổng suy trầm và thất nghiệp vượt quá 10%. Sau đó, nhà nước nhảy vào can thiệp và nếu có giải quyết được một số vấn đề thì lại gây ra nhiều vấn đề khác cho tương lai, theo kiểu liều thuốc đổ bệnh.

RFI: Sau đó thì chính quyền Hoa Kỳ giải quyết ra sao để ra khỏi khủng hoảng và nhất là để một trường hợp tương tự không tái diễn?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Mọi chuyện trên đời hay trong kế toán đều có hai mặt tích-tiêu là «tích cực và tiêu cực».

- Trước hết là chuyện chặn đà khủng hoảng với đạo luật "Cấp thời Ổn định Kinh tế" ban hành ngày ba Tháng 10 năm 2008, bên trong có chương trình nhà nước chi ra 700 tỷ để mua lại vốn và tài sản của các doanh nghiệp tài chánh hầu chấn chỉnh quân bình của khu vực tài chánh. Số tiền sử dụng về sau được giảm và tính đến năm nay thì nhà nước không lỗ mà còn lời được 32 tỷ.

- Thứ hai, đây là một vụ khủng hoảng quốc tế vì chi phối các ngân hàng ngoài Hoa Kỳ. Sau cơn khủng hoảng, hệ thống giám sát ngân hàng tại Basel, hay là Bâle, bắt các ngân hàng nâng tiêu chuẩn an toàn về vốn so với tiền cho vay ra, về mức thanh khoản và phải trắc nghiệm "ứng suất", là khả năng ứng phó với nhiều kịch bản đột biến về kinh tế tài chánh. Nói chung, dù chưa chấp hành hết các thỏa thuận của Basel III, ngân hàng Âu-Mỹ ngày nay có mức vốn cao hơn và biết thận trọng hơn khi đi vay. Đấy là điểm tích cực nhất.

- Thứ ba, trong nội bộ Hoa Kỳ, Tháng Bảy năm 2009, Quốc hội Mỹ biểu quyết đạo luật cải cách ngân hàng gọi là Dodd-Frank từ tên của hai vị dân cử cầm đầu ủy ban tài chính ngân hàng của Thượng viện và Hạ viện năm đó, vốn bị tai tiếng về tiền bạc với hai doanh nghiệp bán công đã góp phần gây ra khủng hoảng là Fannie Mae và Freddie Mac. Đạo luật hơn 800 trang và cả ngàn điều khoản rắc rối đã mở rộng quyền kiểm soát của nhà nước, mà đến nay mới chỉ khai triển có 40% nội dung thành điều lệ áp dụng. Thí dụ như "quy luật Volcker", do tên của một cựu Thống đốc, theo đó ngân hàng thương mại không được quyền dùng vốn riêng để giao dịch chứng phiếu. Điều khoản này chỉ có 12 trang trong đạo luật mà sau đó tăng dần nội dung theo đà góp ý và vận động của nhiều giới khiến cho cả ngàn trang đã xuất hiện, và cho tới nay vẫn chưa áp dụng.

- Tiêu cực nhất, khủng hoảng là cơ hội bằng vàng cho các chính khách nhảy vào làm luật, mỗi người gài vào một chi tiết, để gọi là bảo vệ quyền lợi của nhân dân mà thật ra là để bành trướng ảnh hưởng của họ và bảo vệ quyền lợi cho thân chủ của họ. Thân chủ đáng kể ở đây chính là các đại gia ngân hàng tại Wall Street và vì vậy một vụ khủng hoảng vẫn có nguy cơ xảy ra sau này.

RFI: Nguy cơ khủng hoảng đó xuất phát từ đâu ?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Khi nhà nước gia tăng kiểm soát thì các cơ sở loại nhỏ và vừa, hoặc các ngân hàng địa phương đều được chiếu cố tận tình và rất khó làm ăn. Trái lại, các ngân hàng lớn tại Wall Street thì vẫn có lối thoát và thực tế cũng đã chi tiền vận động tranh cử cho giới làm luật nên dù góp phần gây ra khủng hoảng, họ vẫn mạnh hơn và tập trung tài sản còn nhiều hơn trước. Tức là tình trạng ỷ thế của loại ngân hàng "lớn không thể đổ được" vẫn còn đó.

- Nhờ kích thước quá lớn và quan hệ kinh doanh đan kết với nhiều ngành, nhiều ngân hàng có thể được nhà nước mặc nhiên nâng đỡ và càng dễ ỷ thế làm liều vì tin là nếu có rủi ro sụp đổ thì nhà nước phải cứu vì sợ hậu qua lan ra cả nền kinh tế. Trong vụ khủng hoảng vừa qua, các chính trị gia đều có thể mị dân mà đả kích tài phiệt Wall Street là tập trung tư bản và lũng đoạn thị trường, nhưng năm năm sau thì mức độ tập trung và khả năng luồn lách của các đại gia Wall Street còn cao hơn. Đạo luật cải cách ngân hàng chỉ bắt con cá nhỏ mà tránh những con cá nhà táng!


 Tài sản do 10 ngân hàng lớn nhất của Hoa Kỳ quản lý, trước và sau - Đồ biểu của LA Times


RFI: Cụ thể hơn thì đâu là những mầm mống rủi ro sắp tới ?

Nguyễn Xuân Nghĩa: - Trước hết là trong nền kinh tế thị trường với vai trò cần thiết của ngân hàng thì khủng hoảng là tất yếu khi nhà nước thi hành chính sách sai lầm. Chính sách sai lầm tất thổi lên bong bóng đầu tư rồi đầu cơ và từ đó đưa tới biến động. Tối đa có thể làm được là phải có ý chí chính trị và khí cụ pháp lý để giảm thiểu hậu quả của khủng hoảng. Nhưng chính sách đối phó trong vụ này dễ gieo mầm cho vụ khác theo lối "bít lỗ hà ra lỗ hổng".

- Thí dụ như trước cơn khủng hoảng thì hai cơ sở bán công Fannie và Freddie kiểm soát và bảo đảm chừng phân nửa tổng số tín dụng gia cư tại Hoa Kỳ, là điều quá rủi ro. Ngày nay, nhà nước đứng ra bảo đảm tới 90% các khoản tín dụng gia cư mới, là điều còn rủi ro gấp bội. Đây là mầm mống của một vụ khủng hoảng tài chánh sau này.

- Ngoài ra, ta không quên nạn Tổng suy trầm và những biện pháp kích thích kinh tế tiến hành cùng việc cải cách tài chánh. Hậu quả bất lường hay liều thuốc đổ bệnh của việc kích thích và cải cách này là giúp người giàu lại thêm giàu trong khi giới trung lưu và người nghèo lại thêm khốn đốn, trong số này có giới trẻ, dù tốt nghiệp cao đẳng hay đại học vẫn khó kiếm ra việc làm. Tỷ lệ thất nghiệp thật của thành phần này đã vượt 19% và khoảng 1/3 bèn về nhà sống với cha mẹ và ghi tên đi học lại. Nhiều người được vay tiền học mà thật ra để sống qua ngày và hậu quả là tín dụng cho sinh viên tăng mạnh, cùng với tỷ lệ trễ hạn hoàn trái. Hoa Kỳ có một quả bóng tín dụng tới ngàn tỷ Mỹ kim đang căng phồng và có thể vỡ.

- Thí dụ sau cùng là ngoài chính quyền liên bang với bội chi ngân sách còn quá cao và gánh nặng công trái chưa giảm thì các cấp chính quyền tiểu bang và địa phương còn có gánh nợ vĩ đại của quỹ hưu bổng. Vụ thành phố Detroit vừa vỡ nợ vào tháng 7/2013 cũng chỉ là một con chim hoàng yến chết dưới hầm vì nhiều trường hợp tương tự sẽ xảy ra. Các địa phương thu nguyệt liễm của nhân viên đem đầu tư kiếm lời để sẽ trả hưu bổng cho người về hưu. Quỹ hưu bổng của chính quyền trên 50 tiểu bang hiện quản lý số tài sản trị giá hai ngàn 600 tỷ đô la nhưng phải thanh toán khoảng sáu ngàn 700 tỷ, tức là thiếu đâu đó hơn bốn ngàn tỷ.

- Số thiếu hụt quá lớn này có thể báo hiệu nhiều khó khăn nếu đầu tư bị lỗ lã, và vì các tiểu bang đảm bảo đến hơn 70% khoản nợ hưu bổng nên sẽ có ngày phá sản khi thành phần sinh sau Thế chiến II về hưu ngày một đông hơn. Nếu muốn tránh thì phải tăng thuế, giảm chi công quyền hay cắt bớt lương hưu, toàn những giải pháp khó nuốt cho các chính trị gia. Sau Hy Lạp và Detroit, ta nên chờ đợi vài đợt vỡ nợ khác của nhiều tiểu bang và thành phố Hoa Kỳ! Cái «nhân» đã có, chỉ chờ cái «duyên».

Thứ Hai, 23 tháng 9, 2013

Hoa Kỳ - Đi Tìm Sứ Mệnh


Nguyễn-Xuân Nghĩa - Người Việt 130922
"Hoa Kỳ Nhìn Từ Bên Ngoài"

Lang ba vi bộ trong vũ điệu Ba Tư 

* Bốn Tổng thống, hai phe. Một bên là Barack Obama, bên kia là Hassan Rouhani của Iran, Bashar al Assad của Syria và Vladimir Putin của Nga *



Tuần này – chỉ tuần này thôi - truyền thông sẽ rọi đèn vào quan hệ giữa Hoa Kỳ và Cộng hoà Hồi giáo Iran của dân Ba Tư. Đó là khi lãnh đạo hai nước có thể bất ngờ gặp nhau nhân kỳ họp hàng năm của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc. Lồng bên dưới là việc Ngoại trưởng John Kerry sẽ họp với Ngoại trưởng Iran là Javad Zarif trong khuôn khổ hội nghị của nhóm P-5 + 1 với Iran.

Nhóm P-5 +1 là năm thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc (Anh, Pháp, Mỹ, Nga và Tầu), cộng thêm đệ nhất cường quốc Âu Châu là Cộng hoà Liên bang Đức.

Nói về nước Đức, chính trường xứ này vừa qua trận động đất với thắng lợi lịch sử của Thủ tướng Angela Merkel và việc đảng Tự do Dân Chủ FDP bị đại bại lần đầu tiên kể từ sau Thế chiến II. Chi tiết đối ngoại đáng chú ý là ảnh hưởng gia tăng của khuynh hướng chống việc hội nhập vào khối Euro. Đáng chú ý hơn vậy là cử tri không quan tâm đến vụ Syria. Việc khủng bố Hồi giáo al Shabaab tấn công và tàn sát con tin ngoài đạo Hồi, kể cả dân Tây phương, trong một thương xá ở thủ đô Nairobi của Kenya đã xảy ra khi dân Đức đi bầu cũng chẳng ảnh hưởng gì đến lá phiếu.

Nhiều người cho là liên minh Âu-Mỹ bỏ qua nhiều hồ sơ nóng của thế giới, hết thiết tha đến lý tưởng nhân đạo đã từng chi phối chánh sách đối ngoại của các nước dân chủ mà quay vào lo chuyện nội bộ. Điều ấy không sai, khi chính trường Hoa Kỳ hết sôi động với vụ Syria và đang mở ra một trận đánh nữa về ngân sách, lồng trong việc hạn chế các khoản chi cho chế độ bảo dưỡng y tế từ đạo luật "Obama Care"....

Nhưng chuyện ấy liên hệ gì đến vụ Iran? Và đến nước Mỹ, nhìn từ bên ngoài?


***

Từ năm 1979, sau cuộc "Cách mạng Hồi giáo" tại Iran và vụ 52 kiều dân Mỹ bị bắt làm con tin trong 444 ngày, hai nước đồng minh cũ đã đoạn giao. Quan hệ căng thẳng chỉ tạm lắng dịu khi Hoa Kỳ mở chiến dịch A Phú Hãn cuối năm 2001, với sự hợp tác ngầm của Iran để tấn công kẻ thù chung là lực lượng khủng bố Al-Qaeda và chế độ Taliban. Sau đó, với chiến dịch Iraq năm 2003, Hoa Kỳ dọn cỗ cho các Giáo chủ Iran khi tiêu diệt chế độ Saddam Hussein của hệ phái Sunni tại Baghdad: hệ phái Shia thân Iran thắng lớn và kiểm soát được một xứ cừu thù của Iran.

Nhưng các Giáo chủ tại Tehran không dừng tại đó.

Họ phất cờ lãnh đạo thế giới Hồi giáo, cạnh tranh tư thế với hệ phái Sunni và Saudi Arabia, qua trung gian của Syria yểm trợ các lực lượng khủng bố cùng hệ phái, như Hamas tại Israel, hay Hezbollah tại Lebanon, và theo kiểu Bắc Hàn, thông báo kế hoạch chế tạo võ khí hạch tâm để bắt bí thiên hạ.... Vì kế hoạch này, Iran bị cấm vận và tự cô lập dần. Những hội nghị xuân thu nhị kỳ, khi có khi không, của nhóm P-5 + 1 không có kết quả, một phần cũng nhờ vai trò yểm trợ của Liên bang Nga và Trung Quốc. Hai cường quốc này giúp các chế độ hung đồ tồn tại để gây rối cho Hoa Kỳ và các nước Âu Châu. Họ muốn tiến tới một trật tự khác và chấm dứt tư thế siêu cường độc bá của nước Mỹ.

Vì những lý do quá phức tạp đó, chuyện Iran hay Syria cũng là mâu thuẫn giữa hai hệ phái lớn của Hồi giáo, với các nhóm cực đoan cùng áp dụng phương pháp khủng bố, và với sự hà hơi tiếp sức của Moscow và Bắc Kinh. Việc Hoa Kỳ và các nước Âu Châu lúng túng gần một tháng trời rồi mở cửa cho Putin bước vào Trung Đông với một "giải pháp ngoại giao" cho Syria là một sự thất thế nhất thời, làm nhiều người lý tưởng thất vọng về khả năng can thiệp của các nền dân chủ để bảo vệ nhân quyền và phát huy chủ nghĩa nhân đạo trên thế giới.

Trong hoàn cảnh đó, các Giáo chủ Tehran mới bật tín hiệu về việc nên đàm hơn nên đánh.

Khi nước Mỹ có vẻ yếu thế và nhân cơ hội xuất hiện của một Tổng thống vừa đắc cử là Hassan Rouhani, những người lãnh đạo thật của Iran là các giáo chủ dưới quyền của Lãnh tụ Tối thượng Khamenei đã học thói Vladimir Putin của Nga mà đưa ra cái sào cho Tổng thống Barack Obama.


***


Lý do dịu giọng đầu tiên là kinh tế, mà kinh tế cũng là chính trị.

Iran sản xuất và xuất cảng năng lượng - 80% trị giá xuất cảng và 50% nguồn thu ngân sách. Khi bị Hoa Kỳ là Liên Âu phong toả kinh tế, xứ này thấm mệt. Năm ngoái dầu xuất cảng giảm 42% và cán cân thương mại sa sút đánh sụt dự trữ ngoại tệ lẫn mức sống người dân.

Nếu nói chuyện song phương với Mỹ, lần đầu tiên từ năm 1979, rồi đàm phán về việc giải tỏa cấm vận và có khi tái lập bang giao, lãnh đạo Tehran có thể đạt thắng lợi lớn với thần dân ở nhà, và với các nước Hồi giáo khác. Sự yếu thế của Hoa Kỳ là một cơ hội không thể bỏ qua.

Phần mình, khi được các Giáo chủ Iran mời vào vũ điệu Ba Tư, Chính quyền Obama có thể nhắm vào nhiều mục tiêu. Vừa có thêm một đòn bẩy cho vụ Syria quá tệ, vừa thêm kẻ đồng hành ngăn ngừa phong trào khủng bố xưng danh Thánh Chiến của hệ phái Sunni – tái diễn sự kết hợp năm xưa trên chiến trường A Phú Hãn. Và thứ ba, chứng minh giá trị của chính sách hòa giải với khối Hồi giáo mà ông Obama theo đuổi từ khi nhậm chức.

Nhưng sự tình lại không nhịp nhàng như vậy.

Mâu thuẫn giữa Hoa Kỳ và Iran thuộc lãnh vực chiến lược không thể hàn gắn bằng vài dấu hiệu ngoại giao chỉ có kích thước chiến thuật. Hoa Kỳ đang có nhiều đồng minh chiến lược tại Trung Đông, như Saudi Arabia, Turkey, Ai Cập, các nước Á Rập trong vùng Vịnh Ba Tư, và Israel. Hâm nóng quan hệ với Iran là xối nước lạnh vào tình đồng minh trong khu vực. Và càng chứng tỏ Hoa Kỳ là một đồng minh không đáng tin. Chưa kể là còn tạo ra một tiền lệ rất xấu với một chế độ hung đồ khác, là Bắc Hàn.

Vả lại, xứ Iran của sắc tộc Ba Tư cũng thấy rõ sự rã rời của các nước Á Rập Hồi giáo từ Mùa Xuân Á Rập năm kia. Họ muốn được Hoa Kỳ tôn trọng, đối thoại ngang hàng, để khai thác cơ hội này mà bành trướng ảnh hưởng trong thế giới Hồi giáo. Nếu có thêm võ khí hạch tâm thì càng hay, mà không có thì cũng thừa thế lực xưng hùng xưng bá.

Vì vậy, chuyện gặp gỡ và đàm phán giữa đôi bên sẽ có những trở ngại khó khắc phục ngay từ phía Hoa Kỳ: kéo dài mà không kết quả. Nếu có thì sẽ là hình ảnh của một nước Mỹ lang ba vi bộ, chạy lòng vòng không định hướng trong một vũ điệu Ba Tư đầy vẻ huyền ảo. Vài tuần sau là lại trôi vào quên lãng....

Cho tới khi Hoa Kỳ tìm ra và định lại cho mình một sứ mệnh khác, phù hợp với đạo lý chính thức mà cũng đáp ứng nhu cầu thực tế của quyền lợi.


___________________


Chỉ có tại nước Mỹ


Không chỉ có Tổng thống Obama mới ân hận về chuyện "lằn ranh đỏ" với vụ Syria. Cảnh sát tại Apopka của Florida đã hỏi giấy, còng tay và tống giam Mark E. Schmidter vì tội vi phạm luật lệ cho khách bộ hành. Đương sự lãnh họa vì rải truyền đơn vận động bỏ phiếu về máy thâu hình ở ngã tư. Lý do vận động không để bảo vệ quyền tự do riêng tư của người dân mà vì anh gàn này ho rằng việc gắn máy chỉ là âm mưu làm tiền bất chính. Viên cảnh sát thi hành việc tống giam đã trả lời, tỉnh bơ, rằng vì Mark Schmidter "không có giấy phép phản đối đèn đỏ". Cứ tưởng là chuyện Hà Nội!

Thứ Sáu, 20 tháng 9, 2013

Khí Công Hoa Kỳ



Nguyễn-Xuân Nghĩa - Việt Báo Ngày 130919

Những bước âm thầm của cuộc cách mạng năng lượng tại Hoa Kỳ 


* "Khí xa" là xe chạy bằng khí đốt! * 



Năm năm sau vụ khủng hoảng tài chánh 2008, khi kiểm điểm lại kinh tế Hoa Kỳ, người ta không nên quên một chuyển động tích cực: nước Mỹ đang lặng lẽ tiến hành cuộc cách mạng năng lượng, với hậu quả có thể đảo lộn quan hệ an ninh và kinh tế trên toàn cầu....

Trong cuộc hội thảo bàn tròn về kinh doanh hôm Thứ Tư 18 tại thủ đô Hoa Kỳ, Tổng thống Barack Obama phát biểu rằng người ta lầm tên (misnomer) khi nói đến việc nước Mỹ sẽ tự túc về năng lượng. Lý do là đặc tính toàn cầu của việc mua bán dầu khí. Cách giải thích trừu tượng đó lọt ra khỏi sự quan tâm của giới tiêu thụ khi giá xăng dầu bơm vào xe hơi chưa mấy thay đổi, nhưng thật ra, Hoa Kỳ đã có một lực đẩy mới cho nền kinh tế. Nếu có chơi chữ mà gọi là "khí công" thì cũng đúng....

Trước hết là về bối cảnh của vấn đề. 

Một cách nôm na thì ta dùng chữ "năng lượng" để nói về hai lực đẩy phổ biến. Đẩy xe cho nhu cầu vận chuyển, và đẩy chong chóng để phát điện. Muốn có điện, người ta dùng than, khí đốt, lò hạch tâm hay loại năng lượng tái tạo như ánh sáng mặt trời, sức gió và sức nước, gọi cho văn hoa là quang năng, phong năng và thủy điện. Muốn chạy xe, thì xăng dầu vẫn là chính. 

Hoa Kỳ đã tự túc về than đá và có thừa cho xuất cảng, sẽ sớm tự túc về khí đốt để có thể xuất cảng kể từ năm 2020 tới đây. Cho nhu cầu vận tải, 90% số năng lượng cần thiết vẫn là dầu thô. Dù có kể thêm trữ lượng dầu thô tại Canada, hai nước Bắc Mỹ chưa sản xuất đủ dầu cho nhu cầu và còn lệ thuộc vào nguồn cung cấp ở nơi khác. Dù mức lệ thuộc này có giảm dần, nước Mỹ chưa thật sự tự túc về dầu. Lời nhắc nhở của ông Obama nhắm vào chuyện đó.

Nhưng vì sao mức lệ thuộc này sẽ lại giảm dần? 

Trước hết, vẫn nói về dầu, Hoa Kỳ có tăng sản lượng dầu thô để nâng mức an toàn năng lượng cho nhu cầu vận chuyển. Tuần qua, nhật lượng dầu thô của Mỹ đã lên tới gần tám triệu thùng một ngày, mức cao nhất kể từ đầu năm 1989, và theo đà này, đến năm 2018, Hoa Kỳ sẽ dẫn đầu thế giới. Song song, kỹ thuật cải tiến từ gốc đến ngọn qua hệ thống phân phối, là yếu tố tích cực khác của việc sử dụng, dù sẽ chỉ có kết quả trong dài hạn. Thứ ba, kỹ nghệ xe hơi của Mỹ đang phát triển công nghệ mới để dùng điện và khí thay dầu và chế tạo ra loại bình điện rẻ hơn. 

Mà nói đến điện thì người ta có nhiều nguồn cung cấp khác. 

Cuộc cách mạng về thuật lý (technology, technologos, thuật và lý) cho nhu cầu năng lượng vận tải mới chỉ khởi sự - xe hơi chạy điện vẫn còn đắt. Nhưng việc lái xe chạy điện và tự "xạc" bình điện trong nhà hay trên xa lộ đã là thực tế chứ không còn là chuyện khoa học giả tưởng. Ngoài ra, người ta còn áp dụng kỹ thuật mới để biến khí đốt thành dầu cặn diesel và nhiều sản phẩm khác, nên số cầu về dầu thô cũng giảm. Sau cùng, hiệu năng tiêu thụ với tiêu chuẩn tiết kiệm cao hơn - và cả sự chuyển dịch dân số khiến số xe đăng bộ của giới trẻ tại Nha lộ vận cũng giảm - đang hạ thấp số cầu về dầu thô tại Hoa Kỳ. 

Dù chẳng lạc quan nghĩ tới bước đột phá khiến nước Mỹ lập tức bớt dùng dầu, ta không nên đánh giá thấp khả năng sáng tạo của doanh nghiệp Hoa Kỳ. Trong khi chờ đợi, giới nghiên cứu về năng lượng đều cho rằng tới quãng 2040, số tiêu thụ dầu thô tại Mỹ sẽ giảm một phần ba.

Nói cho dễ hiểu thì Mỹ vẫn cần nhập dầu nơi khác, và quan tâm đến an ninh tại Trung Đông, nhưng không còn bị các nước bán dầu bắt bí như trước đây. Ngược lại, nhiều nước khác vẫn bị lệ thuộc vào dầu khí Trung Đông. Sự lệ thuộc đó thu hẹp khả năng ứng phó của họ về ngoại giao.

Bây giờ, ta mới nhìn qua nguồn năng lượng cho điện lực – khác với năng lượng cho vận tải.

Đặc tính của nguồn năng lượng này là địa phương tính. Khác với dầu thô là sản phẩm dễ di chuyển và mua bán, năng lượng cho điện lực như than, khí, quang phong năng hay thủy điện thường khó bán cho các thị trường ở xa. Đấy là lý do khiến giá biểu có khác biệt lớn và nước nào mà sản xuất nhiều thì có lợi lớn ở tại chỗ, và ít bị thị trường quốc tế chi phối. 

Hoa Kỳ thuộc vào trường hợp này, lại còn đang cải tiến khả năng tồn trữ và vận chuyện để sẽ thành đại gia bán than và bán khí trong tương lai! 

Hãy chỉ nhìn vào thực tại, của thị trường nội địa.

Nước Mỹ có thừa than và sẽ thừa khí đốt, là nguồn cung cấp cho hai phần ba nhu cầu về điện lực, cho nên có điện rẻ hơn nhiều xứ khác (phân nửa giá Âu Châu và một phần ba giá của Nhật). Trong các nhập lượng cần thiết cho sản xuất (đất đai, tư bản, kỹ thuật, lao động, nguyên nhiên vật liệu, v.v...) điện năng khá rẻ tại Hoa Kỳ là một ưu thế kinh tế. Đấy là một nguồn kích thích đầu tư và sản xuất mà nhiều nước công nghiệp hoá khác không có được. 

Hiệu năng tiêu thụ và tiêu chuẩn cao về môi sinh khiến nền kinh tế này sản xuất nhiều hơn và sạch hơn. Nghĩa là cuộc cách mạng năng lượng tại Hoa Kỳ chưa làm rung chuyển thị trường giá cả thế giới, nhưng đã tạo ra một lực đẩy khác cho kinh tế Hoa Kỳ. 

Một chuyện nữa ít được truyền thông chú ý và loan tải. Trong một giai đoạn quá lâu, từ vài chục năm nay, ta cứ thấy chính trường Mỹ tranh luận về việc doanh nghiệp tham lời mà đầu tư ra ngoài, tạo việc làm cho xứ khác và rút ruột khu vực chế biến tại Hoa Kỳ. Cho đến nay, lý luận này của cánh tả lạc hậu vẫn được nhiều người cho là chân lý kinh tế chính trị.

Sự thật đã đổi khác mà họ không thấy, hay chưa thấy. Sự thật là giới đầu tư đã lặng lẽ triệt thoái về thị trường Hoa Kỳ, là nơi mà sự sáng tạo trong kinh doanh và tổ chức đang làm thay đổi cơ cấu phí tổn và lời lỗ. Nhiều doanh nghiệp Mỹ và quốc tế đã thấy lập nhà máy tại Hoa Kỳ lại có lời hơn.

Trước hết là về giá điện như vừa nói ở trên. Thứ nữa, nhiều ngành sản xuất áp dụng thuật lý tự động (robotics) và ráp chế chạy điện để khai thác lợi thế giá cả này. Đã vậy, ngoài công nghệ gạn cát ra khí lỏng, Hoa Kỳ còn có trữ lượng rất cao về khí đốt và sẽ là đại gia trong một tương lai lâu dài hơn các đại gia bán dầu hiện nay như Saudi Arabia hay Liên bang Nga. 

Ngay trước mắt, một số nước ăn nên làm gia nhờ nhân công rẻ đã bắt đầu đụng trần vì lương tăng và bổng lộc bốc giá trên thời, trường hợp nổi bật của Trung Quốc. Cho nên suy đi tính lại thì doanh nghiệp Mỹ kết luận "ao nhà vẫn hơn", trong, lành và lắm cá hơn!

Kết luận ở đây? 

Từ năm 2006, kỹ nghệ Hoa Kỳ đã có nhiều thay đổi và cuộc cách mạng năng lượng đang đảo lộn nhiều tính toán về kinh doanh, kinh tế và an ninh khiến Hoa Kỳ vẫn là siêu cường giàu mạnh nhất. Giàu mạnh tới mức chịu đựng được nhiều sai lầm về chính sách hay chính trị, lẫn sự lúng túng của lãnh đạo tay mơ. Nhờ vậy mà nước Mỹ vẫn có khả năng xoay trở rộng rãi hơn.

Hoa Kỳ vẫn phải quan tâm đến tình hình Trung Đông và sự ổn định tại một trung tâm dầu khí của thế giới vì chiến tranh có thể gây suy trầm kinh tế toàn cầu. Nhưng trong kịch bản gọi là bất lợi chung cho cả thế giới, thí dụ như khủng hoảng Syria lan rộng hoặc Iran phong tỏa Eo biển Hormuz, nước Mỹ vẫn giữ được thế mạnh hơn tất cả các cường quốc kinh tế như Âu Châu, Nhật Bản, Trung Quốc hay Liên bang Nga. 

Gọi đó là "Khí công Hoa Kỳ" cũng không ngoa.