Hiển thị các bài đăng có nhãn Diễn đàn Kinh tế. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Diễn đàn Kinh tế. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 14 tháng 10, 2015

Viễn Ảnh Kinh Tế Đông Á

Nguyên Lam & Nguyễn Xuân Nghĩa, RFA Ngày 151014
"Diễn đàn Kinh tế" 
 
 
Dân Việt Nam phải biết nhiều hơn về những ngả đường mới cho sự thịnh vượng của mình
 
 
Ảnh minh họa Hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ thao diễn trên biển Thái Bình dương
* Ảnh minh họa Hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ thao diễn trên biển Thái Bình dương Courtesy fsxcarrierops * 
 
 



Sau khi Hiệp ước TPP vượt qua được một bước then chốt vào mùng năm vừa qua, tình hình kinh tế của các nước Đông Á sẽ biến chuyển ra sao? Câu hỏi đó dẫn chúng ta về hai đầu máy kinh tế trong vùng là Trung Quốc và Nhật Bản và về những bài toán an ninh đang đặt ra trong khu vực Đông Nam Á. Nguyên Lam yêu cầu chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa phân tích bối cảnh đó trong chương trình Diễn đàn Kinh tế tuần này.

Nguyên Lam: Xin kính chào ông Nghĩa. Thưa ông, chúng ta còn non ba tháng nữa là sẽ hết năm 2015 đầy biến động kinh tế tài chính lẫn an ninh trên toàn cầu. Nếu việc Hiệp ước Đối tác Xuyên Thái bình dương gọi tắt là TPP đã tiến được một bước then chốt sau năm năm đàm phán giữa 12 quốc gia trên vành cung Thái bình dương, người ta chưa thấy ngay kết quả vì từng nước còn phải vượt qua tiến trình phê chuẩn và tổ chức để áp dụng. Trong khi ấy, kinh tế Trung Quốc ngày càng có dấu hiệu trì trệ đáng ngại cho các nước khác trong khu vực. Vì vậy, kỳ này chúng tôi xin đề nghị ông trình bày cho bức tranh toàn cảnh của khu vực Đông Á trong những tháng cuối năm.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Khi theo dõi tình hình và nhất là trước sự quan tâm của thính giả, tôi xin đi vào vấn đề an ninh trước khi phân tích tình hình kinh tế.

- Trước hết, khi thăm viếng Hoa Kỳ tháng trước, Chủ tịch Tập Cận Bình tuyên bố bên Tổng thống Barack Obama rằng Trung Quốc không muốn quân sự hóa biển Đông Nam Á. Sự thật không hẳn như vậy vì Bắc Kinh tiếp tục củng cố hệ thống quân sự trên các đảo nhân tạo họ xây dựng tại vùng quần đảo Trường Sa đang có tranh chấp với các nước. Cũng vì vậy mà Hoa Kỳ bắn tiếng là sẽ điều động chiến hạm vào phạm vi 12 hải lý của các đảo nhân tạo này để khẳng định việc bảo vệ quyền tự do hàng hải của các nước. Thật ra chiến dịch mệnh danh “tự do hàng hải”, gọi tắt là “Fonop” mới chỉ được các giới chức Mỹ loan báo chứ chưa có cơ sở hay thời điểm rõ rệt bằng cuộc thao dượt hải quân mệnh danh là “Malabar” giữa Hoa Kỳ và Ấn Độ trong khu vực Ấn Độ dương. Năm nay lại có thêm Nhật Bản với sự tham gia của hàng không mẫu hạn Theodore Roosevelt cùng một tiềm thủy đĩnh nguyên tử. Tôi thiển nghĩ rằng đấy là chỉ các tín hiệu thăm dò vì cả Hoa Kỳ lẫn Trung Quốc và Nhật Bản đều đang có ưu tiên khác.

Nguyên Lam: Như vậy, ông cho là việc chiến hạm Hoa Kỳ xuất hiện tại vùng biển Đông Nam Á trong vài ngày hay vài tuần nữa như các giới chức quân sự Mỹ đã bắn tiếng chỉ là tín hiệu trắc nghiệm phản ứng mà thôi? Thế thì ưu tiên của Trung Quốc trong thời gian tới là gì?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Hôm Thứ Ba 13 vừa qua, chúng ta có thêm chỉ dấu từ Trung Quốc về nạn kinh tế sa sút qua thống kê suy sụp về xuất nhập khẩu trong Tháng Chín khiến các thị trường tài chính thế giới đều sụt giá. Như vậy, xu hướng đình đọng kinh tế của Trung Quốc ngày càng rõ hơn và dù Bắc Kinh có can thiệp vào các thị trường cổ phiếu hay ngoại hối thì cũng chỉ để hãm đà suy giảm chứ không thể đảo ngược nổi trào lưu này.

- Nói về ưu tiên thì trong Tháng 10 này lãnh đạo Bắc Kinh phải tổ chức Hội nghị Ban chấp hành Trung ương kỳ 5 của Khóa 18 để 205 Ủy viên Trung ương đảng hoàn tất văn kiện chỉ đạo cho Kế hoạch năm năm, từ 2016 đến 2020. Sau kỳ họp đó, ta sẽ thấy Bắc Kinh xác định thực tế suy trầm và đề ra nhiệm vụ phương hướng cải cách và quản lý kinh tế cho năm tới. Các nước nên theo dõi việc thảo luận, tranh luận hay chỉ tiêu tăng trưởng năm tới để thẩm định khả năng quản lý kinh tế của Bắc Kinh.

- Ngoài ra, cũng thuộc bối cảnh cần chú ý, lãnh đạo Trung Quốc còn phải tiến hành đợt kiểm tra thứ ba và sau cùng của chiến dịch diệt trừ tham nhũng và truy cứ trách nhiệm đảng viên cán bộ trong vụ sụt giá cổ phiếu lẫn các tai họa dồn dập tại Thiên Tân trong Tháng Tám vừa rồi. Cũng trong chiều hướng ấy, ta còn phải xét tới số phận của 26 doanh nhiệp nhà nước đã bị điều tra về tham nhũng để thẩm xét ý chí cải cách cơ chế và chuyển hướng kinh tế của lãnh đạo Trung Quốc.

Nguyên Lam: Như ông vừa trình bày thì từ nay đến cuối năm, ưu tiên của Bắc Kinh là giải quyết các bài toán kinh tế và chính trị nội bộ nên những biểu dương về sức mạnh quân sự họ trình bày trong Tháng Chín có khi chỉ là mặt nổi bên ngoài đế trấn an ở bên trong, có phải vậy không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ thế và không mấy lạc quan về khả năng ứng  phó của họ mà chờ đợi hàng loạt tin tức về thanh lọc hàng ngũ hoặc truy lùng các ngân hàng chui đã dính dấp vào việc tẩu tán tài sản ra ngoài. Ngoài một núi nợ xấu thì giải quyết các bài toán kinh tế tài chính ấy là công việc gần như toàn thời của các cơ quan hữu trách trong bộ máy đảng và nhà nước. Tôi e rằng Chủ tịch Tập Cận Bình đang gặp nhiều khó khăn hơn là bên ngoài có thể nghĩ.


Đại diện 12 nước tham gia đàm phán TPP tại Atlanta, Mỹ ngày 5/10/2015. AFP
Đại diện 12 nước tham gia đàm phán TPP tại Atlanta, Mỹ ngày 5/10/2015. AFP


Nguyên Lam: Bước qua nền kinh tế đứng hàng thứ ba của địa cầu là Nhật Bản thì ông thấy tình hình ra sao?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Chính quyền của Thủ tướng Shinzo Abe đã lấy rủi ro lớn khi tiến hành việc bình thường hóa vai trò quân sự của Nhật qua một khóa họp kéo dài của Hạ viện và tung ra một kế hoạch cải cách mới. Uy tín của Chính quyền có sa sút nên ông Abe vừa phải cải tổ Nội các và trong mấy tháng tới sẽ ra sức kích thích kinh tế. Với lạm phát không tăng, xuất khẩu sút giảm trong tình trạng trì trệ chung của khu vực Đông Á, kể cả Trung Quốc, Nhật Bản sẽ còn bơm tiền và có khi chấp nhận tình trạng ngược ngạo là tài trợ với lãi suất âm. Có thể là vào một kỳ sau chúng ta sẽ tìm hiểu sâu xa hơn về kinh tế Nhật Bản trong bối cảnh của việc áp dụng Hiệp ước TPP.

Nguyên Lam: Thưa ông, giữa hai cường quốc kinh tế đều có vấn đề nan giải trong nội bộ thì các quốc gia Đông Nam Á sẽ xoay trở thế nào?
 
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ là chúng ta cần chú ý đến ba chuyện trước mắt. Thứ nhất là tình trạng sa sút kinh tế của Trung Quốc sẽ còn gây nhiều biến động cho các nước lân bang, nhất là khiến hối suất hay tỷ giá đồng bạc càng giảm so với đồng Mỹ kim. Thứ hai, nạn sụt giá nguyên nhiên vật liệu, kể cả xăng dầu, tiếp tục gây khó khăn cho các nước xuất khẩu thương phẩm. Thứ ba là Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ sẽ phải nâng lãi suất, dù rất nhẹ và nhiều phần là vào tháng cuối năm khiến các nước Đông Nam Á càng thêm kẹt vì khung cảnh quốc tế.

- Trong ngắn hạn thì như vậy, nếu nhìn ra một viễn ảnh xa hơn thì ta không quên là từ năm 1997 rồi từ Thượng đỉnh tại Bali của Indonesia vào năm 2003, Hiệp hội 10 Quốc gia Đông Nam Á gọi tắt là ASEAN đã đề xuất sáng kiến hội nhập kinh tế vào một khối thống nhất. Đó là Cộng đồng Kinh tế ASEAN, viết tắt là AEC. Tiêu chí của kế hoạch lớn lao này là thành lập một thị trường chung cho toàn khối vào năm 2020. Nhưng đến Thượng đỉnh của khối ASEAN vào cuối năm 2007, các nước quyết định hoàn thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN sớm hơn hạn định, không phải là năm 2020 mà vào cuối năm 2015, ngày 31 Tháng 12 tới đây. Ngay trước mắt thì kỳ hạn ấy là một dịp cho các nước kịp thời thực thi việc hội nhập về cả kinh tế lẫn xây dựng hạ tầng cơ sở với nhau hầu tránh được những hiệu ứng bất lợi đến từ Trung Quốc hay Nhật Bản.

Nguyên Lam: Tức là trong khi dư luận quốc tế xôn xao và chú ý đến Hiệp ước Xuyên Thái bình dương TPP thì 10 nước của Hiệp hội ASEAN đã có một kế hoạch hội nhập từ trước rồi và đến cuối năm nay thì coi như phải hoàn tất. Thưa ông, đặc tính của việc hội nhập ấy là gì?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Từ 12 năm trước, Hiệp hội ASEAN muốn lập ra một thị trường chung cho toàn khối, từ sản xuất đến buôn bán với nhau, trong mục tiêu nâng cao sức cạnh tranh và phát triển công bằng của cả khu vực và hội nhập khu vực này vào nền kinh tế toàn cầu. Muốn tiến tới một thị trường có bốn đặc tính ấy, các nước đã vạch ra lộ trình hợp tác như phát triển nhân dụng, tiêu chuẩn hóa khả năng chuyên môn của nguồn nhân lực và thường xuyên tham khảo ý kiến chung về chính sách kinh tế, tài chính và về các biện pháp tài trợ xuất nhập khẩu, v.v…

- Ngoài ra, trước khi Bắc Kinh quảng cáo cho “Con Đường Tơ Lụa” hay tung sáng kiến và bạc tiền về “Ngân hàng Đầu tư Hạ tầng Cơ sở Á châu”, gọi tắt là AIIB, thì thật ra Hiệp hội ASEAN đã đề xướng việc nối kết mạng lưới hạ tầng cơ sở vật chất lẫn điện tử giữa các nước, tạo nền móng cho việc giao dịch và lập ra chuỗi cung ứng trên không gian mạng, kêu gọi sự tham gia của tư doanh, v.v….

- Người ta quá chú ý đến ảnh hưởng của Trung Quốc mà quên rằng các nước ASEAN đã tiến hành những việc cụ thể ấy trong thực tế với nhịp độ khá nhanh. Vì vậy mà họ mới đặt kỳ hạn hoàn thành sớm hơn. Tôi nghĩ rằng trong khi chuẩn bị điều kiện hội nhập vào khu vực TPP sẽ chỉ có trong thực tế của vài năm tới, Việt Nam nên cho quốc dân và doanh nghiệp biết rõ hơn về sự xuất hiện của Cộng đồng Kinh tế ASEAN trong vài tháng tới, trước khi ASEAN chính thức công bố vào ngày 31 Tháng 12 này. Đấy cũng là một bước không nhỏ cho nỗ lực “Thoát Tầu” và khai thác cơ hội mới của một kỷ nguyên mà kinh tế Trung Quốc hết còn là hãng xưởng toàn cầu như trong mấy chục năm qua. Việc hội nhập kinh tế ASEAN còn là mối lợi an ninh chiến lược khi Bắc Kinh đang uy hiếp nhiều nước trong khu vực.

Nguyên Lam: Khi chúng ta tạm tổng kết về tình hình kinh tế trong mấy tháng cuối năm thì Nguyên Lam thấy viễn ảnh ngắn hạn có thể là sự sa sút hay suy trầm xuất phát từ Trung Quốc. Nhưng nếu nhìn xa hơn chân trời ngắn hạn của một năm thì các nước Đông Nam Á và riêng Việt Nam cũng có nhiều triển vọng khả quan và rộng lớn hơn cho lâu dài. Thưa ông có phải vậy không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi thiển nghĩ như vậy và cho là Việt Nam đang có một bước hội nhập chặt chẽ hơn vào Cộng đồng Kinh tế ASEAN dù sao cũng đã quen thuộc và gắn bó. Từ bước hội nhập đó như một cuộc thao dượt, Việt Nam có thể mở ra một khung cảnh hợp tác rộng lớn và đa diện hơn, đó là Khu vực TPP. Muốn như vậy thì nên rà soát lại xem các xứ khác chuẩn bị và tổ chức ra sao để gia tăng khả năng cạnh tranh bằng năng suất cao chứ không bằng lương thấp.

- Khi hội nhập vào kinh tế ASEAN rồi cả khối TPP có 800 triệu dân, Việt Nam có thể trui rèn khả năng cạnh tranh và còn tìm ra nhiều nguồn cung ứng khác về đầu tư, kỹ thuật và nguyên vật liệu để khỏi lệ thuộc vào kinh tế Trung Quốc rồi bị Bắc Kinh uy hiếp về an ninh. Người dân Việt Nam phải được biết rõ hơn về những ngả đường mới và sẽ tự chuẩn bị cho mình cơ hội tranh thủ những mục tiêu cao xa hơn. Hãy nhớ đến kinh nghiệm của Hàn Quốc và Đài Loan tại Đông Bắc Á để khỏi làm một nước chậm tiến trong khối ASEAN hay là một quận huyện vệ tinh của Bắc Kinh.

Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á châu Tự do xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc trao đổi hôm nay.

Thứ Tư, 7 tháng 10, 2015

Hiệp Ước TPP – Triển Vọng và Thách Đố

Nguyên Lam & Nguyễn Xuân Nghĩa, RFA Ngày 151007
Diễn đàn Kinh tế 
Việt Nam được lớn, Trung Quốc thua đậm 
 
Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement, viết tắt là TPP) gồm 12 quốc gia thành viên bao gồm Úc, Brunei, Chile, Malaysia, Mexico, New Zealand, Canada, Peru, Singapore, Vietnam, Mỹ và Nhật Bản
* Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement, viết tắt là TPP) gồm 12 quốc gia thành viên bao gồm Úc, Brunei, Chile, Malaysia, Mexico, New Zealand, Canada, Peru, Singapore, Việt Nam, Mỹ và Nhật. File photo * 





Ba tháng sau khi làm các thị trường quốc tế rúng động vì tình trạng suy nhược kinh tế, hôm Thứ Hai mùng năm vừa qua, Trung Quốc lại gây chú ý vì vắng mặt trong một hệ thống hợp tác kinh tế đang thành hình trên vành cung Thái Bình Dương. Đó là Hiệp ước Đối tác Xuyên Thái Bình Dương, được gọi tắt là TPP, để tiến tới tự do thương mại giữa 12 quốc gia hàng năm sản xuất ra gần ba chục ngàn tỷ đô la hay 40% sản lượng kinh tế toàn cầu, trong đó có Việt Nam. Diễn đàn Kinh tế sẽ tìm hiểu về hệ thống hợp tác ấy từ nhiều giác độ khác nhau. Nguyên Lam mở đầu với câu hỏi dành cho chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa như sau:


Nguyên Lam: Xin kính chào ông Nghĩa. Mờ sáng Thứ Hai vừa qua, giờ miền Đông Hoa Kỳ, 12 bộ trưởng hữu trách vừa thông báo thắng lợi lịch sử là đã hoàn tất năm năm đàm phán để tiến tới chế độ tự do thương mại giữa 12 quốc gia trong vành cung Thái Bình Dương, thường được gọi tắt là Hiệp ước Đối tác TPP. Dĩ nhiên là dư luận Việt Nam cũng chú ý đến bản hiệp ước vì Việt Nam là một thành viên trong hệ thống hợp tác quy mô này, dù là thành viên có nền kinh tế non yếu nhất và phải cải cách rất nhiều và rất nhanh hầu khai thác được một cơ hội phát triển mới trong các thập kỷ tới. Trong chương trình kỳ này, xin đề nghị ông phân tích cho nội dung của hợp tác và tính chất chiến lược của một trật tự kinh tế mới vì quốc tế đều nói đến sự vắng mặt của Trung Quốc trong hệ thống đang thành hình.

Nguyễn-Xuân Nghĩa:
- Một cách khái quát thì nội dung chi tiết của các cam kết giữa 12 quốc gia về hơn 70 hồ sơ trình bày trong 30 chương khá dài chỉ được công bố trong nhiều ngày tới. Lý do là các cơ quan chuyên môn còn phải qua phần kỹ thuật là trình bày, rà soát ngôn từ luật pháp, phiên dịch rồi kiểm lại văn bản, v.v… trước khi có một văn kiện được quốc hội các nước cứu xét và phê chuẩn. Mặc dù nội dung chi tiết chưa được công bố sau năm năm và hơn hai chục vòng thương thuyết, người ta cũng đặt nhiều kỳ vọng về hệ thống tự do thương mai và đầu tư đang hình thành giữa 12 quốc gia có sản lượng kinh tế bằng 40% của toàn cầu.

- Song song, như cô vừa hỏi, người ta cũng chú ý đến sự kiện Trung Quốc vắng mặt trong hệ thống tự do này khi nền kinh tế đứng hạng nhì thế giới có dấu hiệu sa sút sau ba chục năm gây kinh ngạc. Vì vậy, bối cảnh chung là 1) sự xuất hiện của một trật tự kinh tế mới trên vành cung Thái Bình Dương, chủ yếu là Á Châu, khi 2) Trung Quốc chưa lên tới đỉnh với tham vọng của một siêu cường đã lại có chỉ dấu thoái trào và 3) chi tiết của hệ thống hợp tác mới đang được công khai hóa.

Những kinh nghiệm đó cho thấy giá trị của tự do trao đổi và trong cụ thể thì dù Hoa Kỳ có thể hưởng lợi nhiều khi buôn bán với 11 nước kia, mối lợi ấy vẫn chưa bằng những gì mà các nước chậm phát triển nhất sẽ được sau này. Việt Nam là thành viên được mọi nơi đánh giá là sẽ có lợi nhất... Nguyễn-Xuân Nghĩa

Nguyên Lam: Chúng ta sẽ đi qua ba bước phân tích như ông vừa tóm lược về bối cảnh. Trước hết, hệ thống hợp tác TPP đang thành hình là cái gì?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Ta hãy cùng nhớ về một thời điểm then chốt, gần như là điểm lật vào năm 2008. Năm đó, Hoa Kỳ vừa bị khủng hoảng tài chính và toàn cầu bị nạn Tổng suy trầm khi Trung Quốc ào ạt bơm tiền kích thích kinh tế để vượt Nhật Bản thành nền kinh tế đứng hạng nhì về sản lượng. Năm đó, Hoa Kỳ mới chú ý đến sáng kiến hợp tác giữa bốn nước nhỏ là Singapore, Brunei, Chile và New Zealand và xin tham gia để xây dựng hệ thống giao dịch tự do về đầu tư và mậu dịch. Do sự tham gia của nền kinh tế dù sao vẫn giàu mạnh nhất, nhiều nước lần lượt hưởng ứng và mở ra vòng đàm phán khi cơ chế tự do thương mại đa phương là Tổ chức Thương mại Quốc tế WTO lại lâm vào bế tắc từ Tháng 10 năm 2008.

- Thế rồi, Hoa Kỳ có lãnh đạo mới sau cuộc bầu cử cuối năm 2008 then chốt đó và Chính quyền Barack Obama thuộc đảng Dân Chủ lại có xu hướng bảo hộ mậu dịch rất mạnh và mất cả năm suy nghĩ, cân nhắc rồi mới hiểu ra lợi ích sâu xa của tự do mậu dịch để lại thúc đẩy việc đàm phán kể từ năm 2010. Hai năm sau, nền kinh tế đứng hạng ba là Nhật Bản mới vào cuộc. Tổng cộng là hiện có 12 quốc gia tham dự vào vòng đàm phán, nhưng không mời Trung Quốc.

Nguyên Lam: Hèn gì người ta cứ nói là thương thuyết mất hơn năm năm mới xong. Thưa ông, một cách khái quát thì các nước của hệ thống gọi là TPP đã đàm phán với nhau về những gì?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Nguyên tắc chung mà họ nhắm tới là chế độ trao đổi tự do, hết còn hàng rào quan thuế hay hạn chế, hạn ngạch về lượng lẫn phẩm để nhờ quy luật thị trường mà đem lại thịnh vượng cho mọi đối tác trong cuộc. Thể thức tiến hành là sự cam kết giải tỏa và cải cách để cùng tạo ra sân chơi bình đẳng trong một thị trường chung cho cả tập thể. Khi ấy, vì khác biệt về trình độ phát triển và hệ thống quản lý giữa các nước, họ phải đàm phán và tranh đấu về thể thức, điều kiện và thời hạn giải tỏa để trong một vài năm hay cả chục năm tới thì xây dựng được một trật tự mới.

- Một cách cụ thể thì sẽ triệt tiêu hơn 18 ngàn rào cản về thuế suất nhập nội để các nước tự do buôn bán với nhau theo một trình tự thật ra khá phức tạp mà chúng ta chỉ hiểu ra dần dần khi nội dung của bản hiệp ước được công bố. Nếu thấy ra các vấn đề có vẻ tạp nhạp như trứng, sữa, gạo, hay cao cấp như xe hơi, dược phẩm được cãi cọ cùng với chuyện môi sinh, công nghệ tin học, hay quyền sở hữu trí tuệ, ta phải hình dung ra một thế giới mới của thế kỷ 21….

Trong hệ thống TPP, Việt Nam sẽ có hậu phương lớn của 11 nước để từ bông vải qua dệt sợi mà tiến vào thị trường áo quần may mặc hoặc từ các phụ kiện điện tử mà lên tới trình độ chế biến cao hơn, có giá trị hơn. Với một hậu phương mới, kinh tế Việt Nam sẽ bớt lệ thuộc vào nguồn cung cấp nguyên vật liệu của Trung Quốc nên khó bị Bắc Kinh khuynh đảo - Nguyễn-Xuân Nghĩa

Nguyên Lam: Như ông vừa trình bày thì cái trật tự kinh tế mới chỉ bước vào giai đoạn hình thành và có phải là khi các thông tin chi tiết được công bố thì người ta mới biết thêm về triển vọng hay các rủi ro của tương lai không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa là đúng như vậy và mọi số liệu về lợi hay hại của tự do thương mại mới chỉ là dự phóng, căn cứ trên kinh nghiệm của trăm năm tự do hay bảo hộ mậu dịch giữa các nước với nhau. Những kinh nghiệm đó cho thấy giá trị của tự do trao đổi và trong cụ thể thì dù Hoa Kỳ có thể hưởng lợi nhiều khi buôn bán với 11 nước kia, mối lợi ấy vẫn chưa bằng những gì mà các nước chậm phát triển nhất sẽ được sau này. Việt Nam là thành viên được mọi nơi đánh giá là sẽ có lợi nhất nhưng chính vì vậy mà sẽ bị xu hướng bảo hộ mậu dịch rất mạnh trong đảng Dân Chủ của nghiệp đoàn của nước Mỹ xoi mói và đả kích nhiều nhất, nào là có điều kiện lao động tồi tệ hay nhân quyền và môi sinh không được bảo vệ. Lý do mà tôi cho là lạc hậu của xu hướng này là Việt Nam chiếm lợi thế nhờ nhân công rẻ lãnh lương thấp nên sẽ làm lao động Mỹ  mất việc. Nó cũng lạc hậu như lý luận tự do mậu dịch làm khu vực chế biến tại Mỹ sa sút vì doanh nghiệp Mỹ đầu tư ra ngoài. Trong các năm tháng tới, ta sẽ còn thấy bùng nổ cuộc tranh luận này trong khi Việt Nam và nhiều xứ khác phải ráo riết cải cách để thực hiện những cam kết của mình.

Nguyên Lam: Giữa các chi tiết trùng điệp và phức tạp về tương lai lồng trong dự kiến hợp tác có quy mô toàn cầu, thưa ông, thế nào là một cách phán đoán về lẽ đúng sai và được thua?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi thiển nghĩ rằng quy tắc phán đoán ở đây có hai mặt. Về nhận thức thì thành phần nào có lợi nhờ tự do sẽ ít nói đến mối lợi trong khi thành phần phải cạnh tranh thì chỉ nêu ra những điểm tiêu cực và ồn ào đả kích làm dư luận càng khó hiểu ra lợi hại của thực tế, vì nhận thức sai. Mặt kia về thực tế thì xứ nào sớm cải cách cơ chế để tiến tới tự do thì sẽ thành công hơn các nước hay thành phần chỉ muốn bảo vệ nguyên trạng. Cải cách cơ chế cũng quan trọng như xây dựng hạ tầng cơ sở và bảo vệ nguyên trạng của đặc quyền đặc lợi thì cũng tai hại như phá hủy cầu đường của chính mình. Cũng vì thế mà thông tin sẽ giữ vai trò quan trọng cho nhận thức và ý chí cải cách để giải phóng tiềm lực quốc gia, và ra khỏi sự kiềm tỏa của nhà nước.

Nguyên Lam: Hình như ông đang ám chỉ yêu cầu cải cách cho Việt Nam, là gỡ bỏ nguyên trạng của hệ thống doanh nghiệp nhà nước và cải thiện điều kiện lao động, môi sinh hay nhân quyền để giải phóng sức sản xuất của người dân hầu tiến tới thịnh vượng và phát triển. Thưa ông, ta bước vào phần thứ ba là vị trí của Trung Quốc trong cái trật tự mới đang được hình thành. Ông nhận xét thế nào về trật tự mới này?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Trung Quốc đang đi vào nhiều năm thoái trào, cũng sẽ phải cải tổ để chuyển qua hướng phát triển mới hầu khỏi bị nội loạn. Nhưng tính chủ quan duy ý chí của lãnh đạo khiến họ đề xướng nhiều sáng kiến to tát cho các nước, như mở ra Con Đường Tơ Lụa Mới với sáu hành lang kinh tế dọc ngang từ Á sang Âu ngoài biển và trên đất liền, hoặc các dự án thành lập ngân hàng đầu tư hay phát triển cấp vùng, v.v…. Đùng một cái người ta thấy ra nhược điểm sinh tử của nền kinh tế mắc nợ đang bị suy trầm tại Trung Quốc trước sự lúng túng can thiệp hay kiểm soát mà vẫn bất lực của lãnh đạo. Biến cố 2008 nay mới dẫn tới một bước ngoặt khác!

- Thế rồi, vào đúng lúc này, hệ thống TPP lại có hy vọng thành hình sau năm năm trăn trở để từ nay các nước Á Châu có thể phát triển gắn bó hơn với Hoa Kỳ và Nhật bản là hai đầu máy khác của kinh tế toàn cầu. Trong vài năm nữa thôi, Nam Hàn và cả Đài Loan cũng sẽ gia nhập, khi ấy, các nước sẽ có sự chọn lựa giữa hai hình thái phát triển gần như đối nghịch về học thuyết kinh tế, giữa tự do kiểu TPP và kiểm soát kiểu Bắc Kinh. Hậu qủa ngoài kinh tế của hình thái phát triển ấy là những cân nhắc về an ninh chiến lược vì các sáng kiến kinh tế do Trung Quốc đề ra đều có nội dung và mục đích là an ninh, nhằm củng cố vai trò và ảnh hưởng của Bắc Kinh trên các nước.

Nguyên Lam: Câu hỏi cuối, thưa ông, Việt Nam nên tự chuẩn bị thế nào cho tình huống mới mà đạt kết quả phát triển nhưng cũng tránh được nhiều rủi ro?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Sau ba thập niên trôi dần vào trật tự Trung Quốc vì lãnh đạo chỉ muốn bảo vệ quyền lợi của đảng độc quyền và tay chân thân tộc ở dưới, Việt Nam có cơ hội thoát khỏi tình trạng lệ thuộc về kinh tế lẫn bế tắc về lý luận và nhất là thoát khỏi vòng kiềm tỏa về an ninh chiến lược của Bắc Kinh. Đấy là khung cảnh lớn của các bài toán chuyên môn về chính sách và cải cách. Nếu muốn khai thác cơ hội mới cho thắng lợi thì Việt Nam phải thay đổi tư tưởng và cải cách về tổ chức để người dân có quyền chọn lựa, một cách tự do, để làm chủ vận mệnh của mình.

- Một thí dụ thiết thực là trong hệ thống TPP, Việt Nam sẽ có hậu phương lớn của 11 nước để từ bông vải qua dệt sợi mà tiến vào thị trường áo quần may mặc hoặc từ các phụ kiện điện tử mà lên tới trình độ chế biến cao hơn, có giá trị hơn. Với một hậu phương mới, kinh tế Việt Nam sẽ bớt lệ thuộc vào nguồn cung cấp nguyên vật liệu của Trung Quốc nên khó bị Bắc Kinh khuynh đảo. Các thị trường quốc tế đều đánh giá là từ hệ thống TPP, Việt Nam có lợi nhất và Trung Quốc bị thiệt hại nhất. Việt Nam phải mau chóng cải sửa để biến dự phóng ấy thành hiện thực. Lãnh đạo mà không dám hay không muốn thì người dân phải làm vì đấy mới là tương lai xứng đáng của mình.

Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do xin cảm tạ chuyên gia Nguyễn-Xuân Nghĩa về những phân tích này.


Thứ Tư, 30 tháng 9, 2015

Hàng Việt Nam – Chế Tạo Tại Nước Ngoài

Nguyên Lam & Nguyễn Xuân Nghĩa, RFA Ngày 150930
"Diễn đàn Kinh tế"  


Vì sao chưa thể có "Hàng Việt Nam"?  
 
Những cửa hàng "Made in Vietnam"  trên đường phố.
* Những cửa hàng "Made in Vietnam" trên đường phố. Photo Ngoc Lan * 





Với viễn ảnh gia nhập Hiệp ước Xuyên Thái Bình Dương TPP trong vài năm tới, Việt Nam hy vọng buôn bán tự do với một khu vực rộng lớn của 12 quốc gia có sản lượng bằng 40% của toàn cầu. Khi ấy, quy chế về thương hiệu được đặt ra. Đó là điều kiện ưu đãi chỉ áp dụng cho các hàng hóa hay dịch vụ chế tạo tại một quốc gia thành viên của khu vực TPP. Diễn đàn Kinh tế sẽ tìm hiểu về vấn đề xuất xứ chế tạo qua cuộc trao đổi với chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa.


Nguyên Lam: Xin kính chào ông Nguyễn-Xuân Nghĩa. Thưa ông, kinh tế Việt Nam có cơ hội phát triển mới xuất phát từ hai chuyển động quốc tế. Một là Trung Quốc ở vào giai đoạn chuyển hướng với đà tăng trưởng thấp hơn và hết chiếm lĩnh ưu thế chế biến hàng tiêu dùng nhờ nhân công rẻ. Hai là Việt Nam sẽ cùng 11 nước khác gia nhập khu vực tự do thương mại Xuyên Thái Bình Dương, gọi tắt là TPP. Trước viễn ảnh đó, Việt Nam hy vọng thu hút đầu tư của nước ngoài để thành một công xưởng ráp chế hàng hóa phần nào thay thế thị trường Trung Quốc và bán cho các nước trong khối TPP dưới nhãn hiệu là “Hàng Việt Nam”. Nhưng mà nhìn từ giác độ của các thành viên TPP thì thế nào là “Hàng Việt Nam”? Vì câu hỏi này đang gây tranh luận ở trong nước, xin hỏi là ông người ta nên nghĩ sao về một giải đáp thỏa đáng?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi trộm nghĩ rằng người ta sở dĩ tranh luận chỉ vì lầm lẫn về ngôn từ. Tôi xin được đi ngược lên khái niệm sản xuất để chúng ta cùng hiểu ra điều ấy.

- Khi thấy thị trường có một nhu cầu chưa được thỏa mãn mà mình muốn đáp ứng để kiếm lời thì trước hết phải có sáng kiến sản xuất ra loại hàng hóa giải quyết nhu cầu đó của thị trường. Yếu tố then chốt ở đây là “sáng kiến”, kế tiếp mới là bố trí sản xuất để từ đó có một sản phẩm hoàn tất. Việt Nam mà có sáng kiến và khả năng tổ chức để sản xuất thì sẽ có “Sản phẩm của Việt Nam” hoặc nói theo Anh ngữ là “Product of Vietnam”. Chỉ trong trường hợp đó ta mới gọi “Sản phẩm của Việt Nam” hay “Hàng Việt Nam”.

- Yếu tố quyết định là sáng kiến và khả năng tổ chức để tìm ra kỹ thuật, thiết bị và nguyên vật liệu hầu sản xuất ra một mặt hàng trước đấy chưa có. Việt Nam chưa đi tới trình độ ấy, về cả sáng kiến lẫn tổ chức sản xuất, nên chưa thể có “Sản phẩm của Việt Nam” hay “Hàng Việt Nam”. Đấy là chuyện có thể hiểu được, nhưng bị lãng quên vì cái bệnh tự ru ngủ và hài lòng với sự tầm thường.

- Vì chưa có khả năng, Việt Nam phải ăn theo thị trường. Hình thái nhỏ là khi thấy thiết bị đi động của nước ngoài ăn khách thì ta sản xuất các nhóm phụ kiện, như cho smart phone hay tablet của Mỹ và Đại Hàn, với giá rẻ mà phẩm chất và độ bền thì còn thua hàng phụ kiện của hãng chính hay của Trung Quốc. Khi mới bước vào loại hàng có kỹ thuật cao thì chỉ làm được như vậy mà thôi.

Yếu tố quyết định là sáng kiến và khả năng tổ chức để tìm ra kỹ thuật, thiết bị và nguyên vật liệu hầu sản xuất ra một mặt hàng trước đấy chưa có. Việt Nam chưa đi tới trình độ ấy, về cả sáng kiến lẫn tổ chức sản xuất, nên chưa thể có “Sản phẩm của Việt Nam” hay “Hàng Việt Nam” - Nguyễn-Xuân Nghĩa
- Lên một trình độ khác thì xem xứ khác đang kiếm tiền bằng cách nào ta cố bắt chước, là khai thác sáng kiến của người khác để tham gia vào tiến trình sản xuất. Đa số các quốc gia đang phát triển đều ở vào trường hợp đó là khai thác sáng kiến của các nước tiên tiến để góp phần thỏa mãn một nhu cầu của thị trường. Yếu tố then chốt ở đây là “góp phần”.

Nguyên Lam: Khi ông nói “góp phần” thì người ta phải tìm hiểu xem là đóng góp chừng nào và cái phần nào trong sản phẩm là của mình và phần nào là của người khác, của nước khác. Thưa ông có phải là như vậy không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa rằng đúng như vậy và khi ấy ta cần nhìn qua lĩnh vực kế toán.

- Về mặt thương mại, ta biết giới tiêu thụ thường ưa mặt hàng xuất phát từ các quốc gia nổi tiếng. Thí dụ như trang phục xa xỉ đắt tiền mà có nhãn hiệu là “Hàng Pháp” hay “Sản phẩm của Pháp” hoặc “Chế tạo tại Pháp” thì được chiếu cố hơn hàng của Thái Lan chẳng hạn, nên có thể bán cao giá hơn. Thí dụ kia là hàng công nghệ cao của Mỹ, Nhật, Hàn. Khi ấy, vấn đề của quốc gia xuất xứ được đặt ra. Đó là quy chế về “quan thuế” mà Việt Nam cứ gọi sai là “hải quan” vì nhiều cửa quan như phi cảng Tân Sơn Nhất hay Nội Bài chẳng là hải cảng. Theo quy chế này, chỉ được phép gọi là Hàng của Pháp, của Mỹ hay của Nhật Bản, Đại Hàn nếu các nước đó góp phần sản xuất tới hơn 50% của giá thành khi xuất xưởng. “Giá xuất xưởng” là một khái niệm kế toán được các nước cùng chấp nhận và tín nhiệm dù đây đó tại Việt Nam thì vẫn có gian lận.


Nhãn hiệu Made in Vietnam
Nhãn hiệu Made in Vietnam


Nguyên Lam: Nguyên Lam bắt đầu hiểu diễn tiến suy luận của ông. Giả dụ như hãng Samsung của Đại Hàn có sáng kiến về loại điện thoại cao cấp và tổ chức việc sản xuất sao cho có lợi nhất, với giá rẻ mà phẩm chất cao, thì họ có thể thiết lập cơ xưởng ráp chế tại Việt Nam hay Malaysia. Với công nghệ và thiết bị Hàn quốc, phụ tùng hay phụ kiện của Nhật Bản dưới sự quản lý của kỹ sư Đại Hàn để điều khiển nhân công Việt Nam hoặc Mã Lai sản xuất ra điện thoại có nhãn hiệu là “Sản phẩm Đại Hàn”. Trong suốt tiến trình này, từ nguyên vật liệu lên hàng bán chế phẩm rồi sản phẩm hoàn tất được đóng hộp để bán ra ngoài thì nhiều quốc gia có thể tuần tự góp phần, nhưng phần chính, hơn phân nửa của giá xuất xưởng, là của Hàn quốc. Thưa ông, có phải là phương pháp kế toán mới lần lượt bút ghi tiến trình tích lũy giá trị của sản phẩm hay không?

Áo quần giày dép của Việt Nam với phần đóng góp chủ yếu là của Trung Quốc. Loại sản phẩm đó không thể nào lọt qua ải TPP dù có dán nhãn là “Hàng Việt Nam” vì các thành viên đều truy lên quốc gia xuất xứ không phải là Việt Nam - Nguyễn-Xuân Nghĩa


Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa vâng và khi ấy, khái niệm “góp phần” hay “trị giá gia tăng” mới được đặt ra. Trong thế giới gọi là “toàn cầu hóa” ngày nay, còn rất ít sản phẩm là do một xứ sản xuất nguyên vẹn 100% mà thường là kết quả của nhiều nước cùng tham gia. Vấn đề chính là nước nào quyết định, căn cứ trên cái gì? Nếu năng suất hoặc tay nghề của nhân công Việt Nam mà kém nhân công Mã Lai chẳng hạn thì Samsung có thể dời hãng xưởng mà vẫn có “Sản phẩm Đại Hàn” nhưng ráp chế tại Mã Lai thay vì ráp chế tại Việt Nam. Khi ấy ta mới cần phân biệt các mặt hàng gọi là “Product of Vietnam”, với “Made in Vietnam” hay “Manufactured in Vietnam”, tức là “Sản phẩm của Việt Nam” khác với “Chế tạo hay Ráp chế hoặc Chế biến tại Việt Nam”.

- Việt Nam mới ở vào trình độ góp phần ráp chế hay chế tạo thôi. Khi Bộ Công Thương của Hà Nội hãnh diện về Sản phẩm của Samsung dán nhãn “Hàng Việt Nam” thì họ bị hoang tưởng hoặc nhập nhằng về quy chế thương hiệu. Đấy chỉ là “Sản phẩm Đại Hàn” với phần đóng góp của Việt Nam chưa tới 50%. Trường hợp tương tự chính là áo quần giày dép của Việt Nam với phần đóng góp chủ yếu là của Trung Quốc. Loại sản phẩm đó không thể nào lọt qua ải TPP dù có dán nhãn là “Hàng Việt Nam” vì các thành viên đều truy lên quốc gia xuất xứ không phải là Việt Nam.


Áo sơ mi Made in Vietnam
Áo sơ mi Made in Vietnam


Nguyên Lam: Nói về viễn ảnh gia nhập khu vực Xuyên Thái Bình Dương TPP, giới đầu tư quốc tế đã nhìn vào thị trường Việt Nam như một cơ hội mới, thí dụ trong các ngành may mặc áo quần, để “Hàng Việt Nam” được ưu đãi về quan thuế khi bán cho 11 nước kia. Nhưng khốn nỗi trong cấu trúc Hàng Việt Nam ấy thì phần đóng góp của Trung Quốc lại chiếm đa số vì Việt Nam chưa có nguyên nhiên vật liệu và nhiều phụ tùng lắt nhắt, từ cái khóa trên áo hay sợi dây của đôi giày nên cứ phải nhập từ Trung Quốc. Thưa ông, làm sao mình có thể giải quyết vấn đề ấy?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi xin đi từ chuyện xa đến chuyện gần thì dễ thấy toàn cảnh. 

- Năm 1980 Bộ Công Thương Quốc Tế MITI của Nhật, nay là Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp METI, lập ra Viện Khoa học Công nghiệp và Thuật lý (Agency of Industrial  Science and Technology) AIST có nhiệm vụ phối hợp hoạt động của 16 trung tâm nghiên cứu trên toàn quốc với ngân sách rất cao để nghiên cứu và thực hiện 25 dự án ưu tiên nhằm giải quyết vấn đề tài nguyên và sản xuất và giữ vị trí khoa học tiên tiến cho Nhật. Cho đến nay, dù có sản lượng kinh tế đứng hạng ba, Nhật vẫn có ngân sách nghiên cứu và phát triển hạng nhất nên tiếp tục có những sáng kiến tiên tiến.

- Gần với chúng ta hơn thì năm 1966, khi kinh tế Nam Hàn còn thua kinh tế miền Nam Việt Nam, Hội đồng Kế hoạch của họ đã đề ra hướng phát triển công nghiệp cho 20 năm sau của ba lớp kỹ nghệ. Ba lớp đó là 1/ các ngành phôi thai non yếu như thép, đóng tầu, phân bón và ráp chế điện tử, 2/ các ngành có khả năng cạnh tranh là dệt sợi, áo quần hay giày dép – như Việt Nam ngày nay - và lớp 3/ là các ngành có thể tự túc. Cứ mỗi năm năm thì sự yểm trợ của nhà nước và các tập đoàn sản xuất của tư nhân phải nâng ngành ở lớp dưới lên lớp trên. Tiêu chí của họ là phải bắt kịp và vượt Nhật trên thị trường xuất khẩu. Kết quả là nửa thế kỷ sau, là ngày nay, sản phẩm Đại Hàn như xe hơi hay điện thoại đang chiếm thị phần rất cao trên trường quốc tế của Mỹ, Nhật, Âu.

Nhắc đến kỹ nghệ đóng tầu của Đại Hàn, 20 năm trước còn là phôi thai mà sau đó đã vượt Nhật Bản, còn VN thì 10 năm trước mới sinh ra hiện tượng Vinashin với kết quả tồi tệ ra sao thì ta đã rõ. Một tập đoàn kinh tế nhà nước có sự yểm trợ mọi mặt của nhà nước mà còn vậy thì làm sao tư doanh VN có thể cạnh tranh với nhà nước và với quốc tế sau này? Nguyễn-Xuân Nghĩa


- Trong suốt tiến trình đó, hai nước đang dẫn đầu Đông Á vốn có ít tài nguyên và nhân lực nội địa là Nhật Bản và Đại Hàn đã phát huy sáng kiến và tổ chức để tìm nguồn cung cấp nguyên vật liệu và lao động. Họ lập ra chu trình cung cấp và điều hướng việc đầu tư ra ngoài để dùng bắp thịt và vật liệu của xứ khác. Nếu nhớ lại thì ta tự hỏi rằng trong những năm đó, Việt Nam làm gì và nghĩ gì để ngày nay đi mua vật liệu của Trung Quốc và bán bắp thịt của mình nhờ lương rẻ hầu có phần đóng góp rất nhỏ?


Nguyên Lam: Như ông vừa trình bày kinh nghiệm của các nước đi trước thì việc có được “Sản phẩm Việt Nam” thay vì chỉ có “Sản phẩm Ráp chế tại Việt Nam”, người ta cần khởi sự từ cái đầu, từ khả năng phát huy sáng kiến và tổ chức. Mà có phải là khả năng đó đòi hỏi tầm nhìn dài hạn của giới lãnh đạo kinh tế và doanh nghiệp hay không?


Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Đúng như vậy và tôi nhắc đến kỹ nghệ đóng tầu của Đại Hàn, 20 năm trước còn là phôi thai mà sau đó đã vượt Nhật Bản, còn Việt Nam thì 10 năm trước mới sinh ra hiện tượng Vinashin với kết quả tồi tệ ra sao thì ta đã rõ. Một tập đoàn kinh tế nhà nước có sự yểm trợ mọi mặt của nhà nước mà còn vậy thì làm sao tư doanh Việt Nam có thể cạnh tranh với nhà nước và với quốc tế sau này? Nếu ta có thấy “Hàng Việt Nam” trong loại phụ kiện cho Samsung hay Apple mà chỉ có ưu thế rẻ tiền mà chóng hư thì mình hiểu ra nguyên do sâu xa của vấn đề.

- Sau cùng, ta chẳng nên quên rằng trong hai chục năm qua, công nghệ của thế giới cũng thay đổi nên phí tổn sản xuất của nguyên vật liệu như tơ sợi hay hàng dệt giảm mạnh, với phần đóng góp ít hơn của nhân công và nhiều hơn của thiết bị máy móc. Vì vậy, Việt Nam nên nhìn xa vào đó để tìm nguồn sản xuất và cung cấp khác ngoài Trung Quốc hầu khai thác được lợi thế về thuế khóa của hệ thống TPP. Chỉ với tinh thần đó thì mình mới có “Hàng Việt Nam” đích thực. Yếu tố then chốt ở đây là tinh thần, là tầm nhìn. Chưa khắc phục được bài toán ấy thì mình chỉ đi làm hàng nhái, hàng giả và “Made in Vietnam” vẫn đồng nghĩa với hàng rẻ mà chẳng bền!

Nguyên Lam: Xin cảm tạ ông Nghĩa về bài học thấm thía này.

Thứ Tư, 23 tháng 9, 2015

Nếu Bắc Kinh Xuất Khẩu Đạn?

Nguyễn Lam - Nguyễn-Xuân nghĩa, RFA Ngày 150923
Diễn đàn Kinh tế
 
"Kho đạn ngoại tệ" của Bắc Kinh giảm sút vì họ "xuất cảng đạn" ra ngoài?

Kinh tế Trung Quốc, khối dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc đã giảm sút nặng ... (ảnh minh hoạ)
* Kinh tế Trung Quốc, khối dự trữ ngoại tệ đã giảm sút nặng ... (ảnh minh hoạ) *  



Từ hai tháng qua, các thị trường tài chính quốc tế đều chứng kiến hiện tượng là khối dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc đã giảm sút nặng và tính đến Tháng Bảy vừa rồi thì chỉ còn khoảng ba ngàn 560 tỷ đô la. So với đỉnh cao vào Tháng Sáu năm ngoái thì sụt chừng 440 tỷ đô la. Một trong các nguyên nhân của sự kiện ấy là nạn tẩu tán tư bản, hay chuyển tài sản từ dạng nội tệ là đồng Nguyên qua ngoại tệ là đồng đô la Mỹ. Nhưng nếu lãnh đạo Bắc Kinh lại nhân trào lưu ấy mà có chủ đích tung dự trữ để đầu tư ra ngoài thì sao? Diễn đàn Kinh tế sẽ tìm hiểu mặt trái của sự việc này qua phần trao đổi do Nguyên Lam thực hiện sau đây với chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa.


Nguyên Lam: Xin kính chào ông Nghĩa. Thưa ông, trong chương trình phát thanh vào mùng hai vừa qua, ông nói đến sự kiện khối dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc, được ước lượng là tương đương với bốn ngàn tỷ đô la vào năm ngoái nay đã hao hụt và chỉ còn chừng ba ngàn 560 tỷ tính đến Tháng Bảy. Ông gọi đó là “kho đạn của Bắc Kinh đang cạn dần” trên trận tuyến kinh tế đối ngoại. Kỳ này, chúng tôi xin hỏi ngược rằng nếu Bắc Kinh cố tình tung ngoại tệ ra ngoài trong mục tiêu đầu tư và bành trướng ảnh hưởng thì sao? 

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ là câu hỏi này rất hay vì cho ta thấy một kịch bản khác về kho dự trữ ngoại tệ như một kho đạn. Có thể gọi kịch bản ấy là “Bắc Kinh xuất khẩu đạn” để sẽ có ngày sử dụng sau này. Chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu về những mục tiêu giả định và khả năng thực hiện kế hoạch này.

- Trước hết, ta nhớ là Trung Quốc học các nước Đông Á khi cải cách kinh tế, lấy đầu tư và xuất khẩu làm lực đẩy, rồi nhà nước thu về một lượng ngoại tệ rất lớn nhờ đạt xuất siêu, là xuất nhiều hơn nhập. Sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới 15 năm trước, quả nhiên Bắc Kinh gom về một khối dự trữ rất cao, tính đến Tháng Sáu năm ngoái là lên tới gần bốn ngàn tỷ đô la. Trong số này, họ dùng gần một phần ba, khoảng một ngàn bốn trăm tỷ, để mua tài sản Mỹ, chủ yếu là Công khố phiếu Hoa Kỳ, là cho Mỹ vay tiền. Mà việc cho vay tiền có giảm phân lời đi vay và lãi suất tại Hoa Kỳ nên giúp Trung Quốc dễ xuất khẩu hơn. Một mục tiêu kia của việc cho vay tiền là yêu cầu về an toàn vì thị trường tín dụng Mỹ có đặc tính sâu và rộng hơn năm thị trường lớn nhất đi sau và có tính lưu hoạt cao, là dễ đổi ra tiền mặt đem về.

- Xin nói thêm về bối cảnh hay tương quan trao đổi thì thị trường tiêu thụ Mỹ chỉ có  12% là nhập khẩu mà nhập khẩu từ Trung Quốc chưa bằng gần 1% của Tổng sản lượng Hoa Kỳ trong khi lại là thị trường sinh tử cho kinh tế Trung Quốc. Thứ nữa, thế giới khi đó cứ nói đến việc Trung Quốc là chủ nợ số một của Mỹ mà quên rằng chủ nợ số hai với gần một ngàn ba trăm tỷ là Nhật Bản và nước Nhật không coi Mỹ là một đối thủ về chính trị. Bây giờ, ta mới bước qua chuyện chính trị ấy.

Nguyên Lam: Trước khi nói đến tương quan chính trị như ông vừa nhắc thì chúng ta thấy một tương quan kinh tế khá bất ngờ. Đó là kinh tế Trung Quốc lại cần thị trường Hoa Kỳ hơn là ngược lại, và sau khi đạt xuất siêu thì cũng đẩy tiền qua cho Mỹ vay thì để dễ bán hàng vào Mỹ! Thưa ông có phải vậy không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa là đúng vậy nhưng tình trạng ấy đã hết sau vụ khủng hoảng tài chính và Tổng suy trầm 2008-2009. Hoa Kỳ giảm nhập khẩu và xuất siêu của Trung Quốc hết tăng. Trong khi ấy, Ngân hàng Trung ương Mỹ lại cắt lãi suất tới gần số không rồi ban hành biện pháp bơm tiền gọi là “tăng mức lưu hoạt có định lượng” hay “quantitative easing” khiến tiền rẻ và nhiều mới tràn ngập các thị trường. Trước sự kiện xuất khẩu vào Mỹ thì giảm mà đô la Mỹ lại rẻ, doanh nghiệp Trung Quốc bèn đi vay bằng đô la. Thực tế thì nhiều quốc gia cũng có động thái tương tự nên tổng cộng các nước đã mắc nợ thêm khoảng chín ngàn tỷ đô la, là một con số không nhỏ.

- Nhưng kinh tế Mỹ đã tạm phục hồi dù chưa mạnh nên từ năm kia, Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ thông báo là giảm dần và chấm dứt việc bơm tiền rồi sẽ có lúc tăng lãi suất để trở về trạng thái bình thường nên từ năm ngoái, đồng Mỹ kim vọt lên giá. Khi đô la lên giá, và sẽ còn lên nếu lãi suất ngắn hạn được nâng khỏi số không, thì các quốc gia hay doanh nghiệp mà vay vào bằng đô la bị gánh nợ cao và đắt hơn. Vì vậy, yêu cầu trả nợ khiến các doanh nghiệp Trung Quốc cần nhiều đô la hơn. Đã thế, vì đoán trước là đô la còn lên giá so với các đồng bạc khác, kể cả đồng Nguyên, giới đầu tư hay các doanh nghiệp và đại gia có tiền bèn nghĩ đến việc bán ra đồng Nguyên để mua vào đô la trước khi tiền Mỹ lên giá.

- Ngần ấy yếu tố mới dẫn đến chuyện đồng Nguyên bị sức ép khiến Bắc Kinh phá giá vào tháng trước rồi dùng khối dự trữ bán ra đồng Nguyên để mua vào đô la nhằm thanh toán nợ nần. Dự trữ ngoại tệ vì vậy bị hao hụt cả trăm tỷ trong có một tháng. Đó là chuyện "kho đạ"n của Bắc Kinh bị bào mỏng.

Nguyên Lam: Nhưng thưa ông, cho dù Bắc Kinh đã mất vài trăm tỷ và sẽ mất thêm thì phần còn lại của khối dự trữ đó cũng có thể là các khoản đầu tư ra ngoài. Huống hồ, như ông vừa phân tích, giới đầu tư hay các doanh nghiệp và đại gia có tiền của họ đều đã đoán trước rằng tiền Mỹ sẽ tăng nên mới bán ra đồng Nguyên để mua trước đô la. Như vậy thì mình có thể nói rằng việc tẩu tán tài sản ấy cũng mang ý nghĩa tích cực là đầu tư ra ngoài được không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi thiển nghĩ là chẳng những lãnh đạo Bắc Kinh có mơ điều ấy mà còn nhắm vào nhiều mục tiêu sâu xa hơn. Nhưng họ có thành công hay không lại là chuyện khác.

- Trong trung hạn, theo quy ước chung là từ hai đến năm năm, thì các dự án xây dựng Con Đường Tơ Lụa trên đất liền và ngoài biển hoặc việc thành lập định chế tài chính như Ngân hàng Đầu tư Hạ tầng Cơ sở Á Châu AIIB hay Tân Ngân hàng Phát triển của nhóm BRICS đều là loại đầu tư để bành trướng ảnh hưởng kinh tế và chiến lược của Trung Quốc. Bắc Kinh có thể đã dự trù 900 tỷ đô la cho giấc mơ đầu tư ấy và tin là kế hoạch lớn lao này sẽ nâng mức xuất khẩu của các tập đoàn kinh tế nhà nước Trung Quốc về thiết bị hay công nghệ, mà lại còn có lời lớn nếu đầu tư bằng đô la. Lý do là tiền Mỹ càng lên giá thì đồng bạc của các nước đối tác kia càng mất giá và chủ đầu tư là Trung Quốc sẽ thêm lợi.

- Trong dài hạn thì mối lợi ấy còn tăng gấp bội nếu Trung Quốc yêu cầu các nước đối tác thanh toán việc đầu tư hay đi vay bằng đồng Nguyên. Đấy là một cách đưa đồng bạc của họ vào thị trường quốc tế để sẽ thành một ngoại tệ giao hoán phổ biến trong toàn vùng Châu Á. Từ đó, Bắc Kinh tin rằng các nước kia sẽ dùng đồng Nguyên như một ngoại tệ dự trữ.

Nguyên Lam: Tức là Bắc Kinh vẫn có giấc mộng đưa đồng bạc của mình vào hàng ngoại tệ dự trữ sau này? Phải chăng là để cạnh tranh rồi sẽ có ngày thay thế đồng đô la Mỹ?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Lãnh đạo Bắc Kinh thường có tham vọng lớn và có cái nhìn trường kỳ như vậy.

- Chúng ta nên trở lại chuyện vừa nói ở trên là quan hệ kinh tế Mỹ-Hoa chỉ là sự lệ thuộc của toa tấu Trung Quốc vào đầu máy Hoa Kỳ nên họ có nỗ lực ta nên gọi là “thoát Mỹ” chứ không thể tiếp tục cho đối thủ vay tiền để dễ mua hàng của mình. Thứ hai, họ tung tiền đầu tư ra ngoài mà lại đầu tư bằng Mỹ kim để chiếm lợi thế khi đô la lên giá. Thứ ba, họ có thể đòi các nước thanh toán bằng đồng Nguyên để xứ nào cũng ghim sẵn đồng bạc Trung Quốc trong kho. Nếu sau này, hay vào năm tới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF mà cho phép đồng Nguyên là một ngoại tệ trong cái giỏ dự trữ có đồng Mỹ kim, đồng Euro, đồng Bảng của Anh và đồng Yen của Nhât, thì sẽ càng củng cố tư thế quốc tế của đồng bạc Trung Quốc.

Nguyên Lam: Đấy có thể là giấc mơ của Bắc Kinh, nhưng thưa ông liệu họ có thành công được chăng?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ là ai chẳng mơ chuyện cung trăng, huống hồ lãnh đạo Bắc Kinh! Họ muốn quốc tế hóa đồng Nguyên và kiểm soát được lưu lượng đầu tư ra ngoài lẫn cả luồng đầu tư của nước ngoài vào Hoa lục. Nhưng thực tế thì họ gặp nhiều rủi ro lắm.

- Trước hết trong cái đà họ gọi là chủ động đầu tư ra ngoài thì vẫn có hiện tượng tẩu tán tài sản, chuyển ngân lậu và cả cái nạn rửa tiền cho các đại gia. Chẳng vậy mà nhiều ngân hàng ma bị Bộ Công an đóng cửa vì tội đã rửa hơn 60 tỷ đô la ở nước ngoài chứ không ít. Ta không quên trường hợp tương tự là khi Liên Xô cho đảng viên cán bộ đem tiền ra ngoài để bành trướng ảnh hưởng thì đồng tiền ấy không trở lại sau khi chế độ tan rã.

- Thứ hai, Chủ tịch Tập Cận Bình có thể mơ ngày đánh bạt ảnh hưởng của đống Mỹ kim bằng một đồng Nguyên được quốc tế hóa, nhưng việc một đồng bạc mà trở thành ngoại tệ giao hoán và dự trữ đòi hỏi nhiều biện pháp cải cách không dễ thực hiện. Một cách cụ thể, khi đồng bạc được thả nổi theo quy luật cung cầu thì cũng có nhiều thành phần bị thiệt hại. Họ không thiết tha với giấc mơ tốn kém của Tập Cận Bình nên tìm cách ngăn cản. Cho nên bên trong hệ thống lãnh đạo chìm và nổi đã có tranh luận và cả thanh trừng dưới danh nghĩa đả hổ diệt ruồi để trừ tham nhũng.

Nguyên Lam: Trong khi ấy, dường như kinh tế Trung Quốc lại bị suy trầm và khi cải cách để chuyển hướng thì càng khó giữ được đà tăng trưởng ngày xưa. Thưa ông, đấy có phải là một rủi ro phụ trội không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi nhớ đến lời phát biểu của tỷ phú Warren Buffet, một nhà đầu tư xuất chúng của Hoa Kỳ, đại để là khi thủy triều rút trên bãi biển thì mình mới biết là ai không bận quần! Khi kinh tế suy trầm thì việc chuyển từ chiến lược lỗi thời sang một hướng khác mới làm các vấn đề tiềm ẩn bên dưới bùng phát lên trên.

- Mà lãnh đạo Trung Quốc lại đang ở vào thời điểm rất nhạy cảm về chính trị. Sau chuyến thăm viếng Hoa Kỳ tuần này, qua tháng 10, Chủ tịch Tập Cận Bình phải chủ trì Hội nghị Ban chấp hành Trung ương kỳ 5 của khóa 18 để thông qua Kế hoạch Năm năm thứ 13, từ 2016 tới 2020. Chẳng những Trung Quốc đang đi vào bước ngoặt mà bản thân và uy tín của họ Tập cũng gặp vấn đề, và thậm chí bị thách đố, sau mấy tháng lụp chụp về chính sách trên thị trường cổ phiếu rồi thị trường ngoại hối.

- Tuần qua, khi Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ chưa tăng lãi suất vào ngày Thứ Năm 17 thì Bắc Kinh đỡ bị sức ép trên đồng Nguyên nhưng chẳng vì vậy mà đã ra khỏi những khó khăn triền miên. Vì thế, cả kế hoạch gọi là dùng kho đạn là ngoại tệ dự trữ để chủ động đầu tư ra ngoài như một hình thái xuất khẩu đạn trong thế đối đầu với Hoa Kỳ có khi chỉ là ảo vọng.

Nguyên Lam: Xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc phỏng vấn kỳ này.


Thứ Tư, 16 tháng 9, 2015

Kinh Tế Trong Vụ Khủng Hoảng Di Dân Tại Âu Châu

Nguyên Lam & Nguyễn Xuân Nghĩa, RFA Ngày150916 
"Diễn đàn Kinh tế" 

Vì sinh đẻ ít, ÂuChâu phải nhập cảng lao động và nhiều vấn đề khác ở bên ngoài  

Hàng ngàn người tị nạn đứng đằng sau một hàng rào ở biên giới Hungary với Serbia gần thị trấn Horgos ngày 16 tháng Chín năm 2015.
* Hàng ngàn người tị nạn đứng đằng sau một hàng rào ở biên giới Hungary với Serbia gần thị trấn Horgos ngày 16 tháng Chín năm 2015. AFP *
 


Ngoài yếu tố an ninh liên quan đến tình hình Syria khiến làn sóng tỵ nạn đã từ miền Nam tràn ngập vào biên giới của các nước Âu Châu, một động lực chậm rãi và mãnh liệt không kém cũng dẫn đến cuộc khủng hoảng về di dân hiện nay tại Âu Châu. Diễn đàn Kinh tế sẽ tìm hiểu về động lực ấy, đó là những tính toán kinh tế tại Âu Châu xuất phát từ dân số. Xin quý thính giả theo dõi cuộc phỏng vấn do Nguyên Lam thực hiện sau đây với chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa.

Nguyên Lam: Xin kính chào ông Nghĩa. Thưa ông, tình hình an ninh cực kỳ bất ổn trong khu vực trải dài từ Bắc Phi tới Trung Đông có thể đã dẫn tới làn sóng tỵ nạn đang tràn ngập Âu Châu và gây ra khủng hoảng. Là chuyên gia kinh tế, ông có thấy gì khác ngoài lý do an ninh khiến các nước Âu Châu đang gặp những thách đố này không vì hình như là trước đây, Liên hiệp Âu Châu cũng từng có nhiều đợt di dân đổ vào lãnh thổ của mình?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa rằng cô nêu câu hỏi này là rất đúng vì cho dù là không có biến động tại Trung Đông như Syria hay Iraq hoặc tại Bắc Phi như Libya thì Âu châu vẫn phải rà soát lại chính sách di dân và nhập cư của mình vì yếu tố kinh tế. Lý do là các nước Âu Châu cần lực lượng lao động bổ sung cho một hiện tượng nhân khẩu chậm rãi và lâu dài là nạn lão hóa dân số. Vì người dân bản địa sinh đẻ ít hơn, tỷ trọng người cao niên có tuổi thọ kéo dài so với dân số lao động ngày càng giảm là một vấn đề kinh tế trường kỳ cho ngân sách các nước. Ngoài ra, hiện tượng nhân khẩu này lại chẳng đồng bộ nên dẫn tới khác biệt và mâu thuẫn giữa nhiều nước trong việc áp dụng hay phát huy lý tưởng tự do lưu thông và di trú tại Âu Châu.

Nguyên Lam: Hèn gì mà người ta thấy vài nước Âu Châu tranh luận với nhau về việc nhận hay không nhận dân tỵ nạn, ai nhận và nhận bao nhiêu. Câu chuyện này quả là phức tạp vì liên hệ đến dân số, ngân sách, chính sách tự do di trú và lý tưởng tự do lưu thông Âu Châu cho nên xin đề nghị ông đi từng bước để trình bày toàn cảnh cho thính giả của chúng ta cùng hiểu rõ. 

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thứ nhất là như tại nhiều quốc gia công nghiệp hóa tiên tiến, người dân các nước Âu Châu thường lập gia đình trễ và có con ít hơn nên về dài thì dân số càng giảm. Thứ hai, tiến bộ khoa học kỹ thuật khiến con người sống thọ hơn trước và sau khi về hưu, bình quân là ở quãng tuổi 65, thì sống nhờ tiền hưu liễm mà lại cần nhiều dịch vụ y tế hơn trước cho sức khỏe. Thứ ba, tỷ trọng của lực lượng lao động, là thành phần ở lớp tuổi từ 15 đến 64, có giảm trong cơ cấu dân số, mà phải lao động và đóng thuế để công quỹ có thể chu cấp cho lớp cao niên. Thứ tư, các xã hội đó đều gặp bài toán là có “tỷ số lệ thuộc” ngày càng tăng, tức là tỷ số cao niên ngày càng lớn so với lực lượng lao động. Kết cuộc thì chênh lệch tất yếu giữa thành phần xin gọi là “sản xuất” và thành phần “tiêu thụ” gây sức ép cho ngân sách quốc gia, dù có giàu mạnh về kinh tế như Mỹ, Nhật hay Đức cũng vậy. Từ những chuyển động chậm rãi mà mãnh liệt ấy về nhân khẩu, người ta mới nói đến “dân số như một định mệnh”, là bài toán khó tránh của các chính quyền.

Nguyên Lâm: Thưa ông, có phải là vì sự chuyển động về cấu trúc dân số như vậy mà các nước mới đón nhận di dân để tăng cường nhân số cho lực lượng lao động hay không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa là đúng như vậy về đại thể mà lại có khác biệt vì lý do văn hóa hay chính trị. Nhật là quốc gia hải đảo đất chật và nghèo mà lại có nét văn hóa là cố duy trì sự thuần chủng nên hạn chế di dân. Hoa Kỳ là quốc gia hình thành nhờ di dân nên đón nhận di dân và là nước tương đối trẻ nhất, trên một lãnh thổ phì nhiêu bát ngát so với Âu Châu hay cả Trung Quốc. Sau này, dân số Hoa Kỳ sẽ còn trẻ hơn dân số Trung Quốc, Âu Châu hay Nhật Bản.

- Đã vậy, Âu Châu còn có lý tưởng tự do lưu thông hàng hóa và nhân lực để xây dựng hợp tác kinh tế bên trong, đấy là động lực manh nha từ năm 1982 và hình thành năm 1995 theo đó, 26 quốc gia ký kết Hiệp ước Schengen để cùng chấp nhận quyền tự do này. Tức là 26 xứ đó hết kiểm soát biên cương với nhau, và dân nước này có quyền tự do di chuyển qua nước kia, nhưng cũng có nghĩa là các nước bên trong phải tin tưởng các nước ở ngoài rìa về việc kiểm soát biên giới. Khi các nước tại vòng ngoài bị sức ép của làn sóng di dân mà không chặn được thì các nước ở vòng trong phải lo ngại vì ủy thác việc bảo vệ biên giới của mình cho xứ khác! Chuyện này còn rắc rối hơn nữa vì trong 26 hội viên của khu vực Schengen chỉ có 22 thành viên của Liên hiệp Âu châu và cơ chế Liên Âu này có những nước đang xin gia nhập nhóm Schengen như Croatia, Rumania hay Bulgaria thì cũng có Anh quốc cùng Ireland thì quyết liệt không gia nhập.


Sau khi rời khỏi các nhà ga xe lửa chính của Budapest hàng ngàn người di cư tiếp tục đi bộ đến biên giới nước Áo. Ngày 4 tháng 9, 2015. AFP
Sau khi rời khỏi các nhà ga xe lửa chính của Budapest hàng ngàn người di cư tiếp tục đi bộ đến biên giới nước Áo. Ngày 4 tháng 9, 2015. AFP  


- Sau cùng, cần nói thêm rằng khối Liên Âu có quy chế đón nhận người tỵ nạn thiết lập từ năm 1997 và cải tiến nhiều lần thành ra “Quy định Dublin” được áp dụng từ Tháng Sáu năm 2013 để cùng chấp hành chính sách đón nhận và bảo vệ nạn dân theo Công ước Quốc tế tại Geneva. Thành thử truyền thông chúng ta sẽ rất lúng túng khi có tin tức dồn dập về vụ khủng hoảng hiện nay và lập trường khác biệt hoặc thay đổi của từng quốc gia hoặc tại Liên Âu, hay trong khu vực Schengen và theo Quy định Dublin hay không.

Nguyên Lam: Nhờ ông Nghĩa trình bày cho cả bối cảnh quá phức tạp này may ra thính giả của chúng ta mới hiểu được vấn đề kinh tế tiềm ẩn bên dưới những tranh luận hay thậm chí tranh chấp của các nước khi vòng ngoài bị sức ép của nạn di dân mà vòng trong lại không chịu mở cửa.

Nguyễn-Xuân Nghĩa:
- Sau khi mô tả hồ sơ quá phức tạp này, ta mới trở lại bài toán kinh tế.

- Sau Thế chiến II, Âu Châu áp dụng chiến lược phát triển với niềm tin là lực lượng lao động đông đảo sẽ góp đủ thuế để chu cấp cho thành phần ở ngoài tuổi lao động. Khi thấy tỷ lệ sinh sản giảm dần, một số quốc gia có tăng trợ cấp cho gia đình đông con nhằm khuyến khích việc sinh đẻ với kết quả thật ra cũng giới hạn trước một chiều hướng văn hóa phổ biến và khó cưỡng. Vì vậy, Âu Châu mới có giải pháp di dân, là nhập khẩu sức lao động từ ngoài.

- Về lý tưởng kinh tế, di dân sẽ nâng mức lao động và số cầu kinh tế để tạo thêm việc làm và sự thịnh vượng. Thành phần di dân có tay nghề cao thì giúp kinh tế phát triển các ngành sản xuất chuyên biệt để khai thác lợi thế tương đối của từng quốc gia. Thành phần thiếu chuyên môn thì lao động trong các ngành cực nhọc mà dân bản xứ không muốn làm. Đã vậy, lực lượng lao động càng đông thì thành phần thọ thuế càng nhiều sẽ tăng mức thu cho ngân sách để nhà nước lo toan cho những người ở ngoài tuổi lao động. Nhưng lý luận kinh tế lạc quan ấy lại đụng vào thực tế cứng đầu và Âu Châu đang khủng hoảng với làn sóng di dân thứ ba, dữ dội nhất, kể từ 10 năm qua.

Nguyên Lam: Ông nói như vậy thì những gì đang xảy ra chỉ là làn sóng thứ ba thôi?. Thưa ông, hai làn sóng kia là gì?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa rằng sau khi Liên bang Xô viết sụp đổ năm 1991, các nước Âu Châu lạc quan thúc đẩy việc hội nhập để thành lập Liên hiệp Âu châu. Từ đó, Liên Âu đã “Đông tiến”, là kết hợp dân số đông đảo của các nước Đông Âu, nhất là các quốc gia có mật độ dân số cao như Ba Lan hay Rumania. Lao động Đông Âu đã “Tây tiến” và góp phần giải quyết vấn đề thiếu hụt dân số của các nước tân tiến hơn ở miền Tây. Đấy là đợt di dân đầu tiên, vào thời 2004-2007.

- Nối tiếp là đợt thứ nhì vào các năm 2009-2010, khi khủng hoảng tài chánh tại các nước miền Nam mở ra phong trào “Bắc tiến”. Dân cư của các nước lâm nạn ở miền Nam đi tìm việc làm trong các quốc gia giàu mạnh hơn ở “vùng cốt lõi” là miền Bắc, từ Pháp qua Đức và các lân bang. Trong hai đợt ấy, hiện tượng di dân vẫn có tính chất nội bộ Âu Châu và dù có gây va chạm, kể cả phản ứng chống di dân, thì cũng chẳng dẫn tới khủng hoảng khi 22 thành viên trong số 28 nước Liên Âu đã ký Hiệp ước Schengen về quyền tự do lưu thông người và vật từ năm 1995.

- Đợt thứ ba là ngày nay thì khác. Làm sóng di dân bùng lên từ Trung Đông và một số quốc gia bị nội loạn ở nơi khác đã dập vào bến bờ Âu Châu để xin tỵ nạn. Di dân là nạn dân và gây vấn đề trước tiên cho các nước lâm nạn kinh tế tại miền Nam, như Hy Lạp, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, rồi lan qua nước khác, với cao điểm là Hungary rồi cả quốc gia giàu mạnh nhất trong vùng cốt lõi là nước Đức.

Nguyên Lam: Ông giải thích thế nào về hoàn cảnh và lập trường của nước Đức trong vụ khủng hoảng này?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Vì có nền kinh tế mạnh nhất và tinh thần rộng lượng nhất với nạn dân nên Đức quyết định đón nhận 800 ngàn người một năm. Nhưng thật ra, Đức là nạn nhân của nạn lão hóa dân số. Theo dự phóng của Liên Âu, từ năm 2020 đến 2060, dân số Đức sẽ mất 10 triệu người.

- Nhìn cách khác, lực lượng lao động tại Đức sẽ mất một phần tư. Và “tỷ số lệ thuộc” của thành phần cao niên sống nhờ hưu bổng và trợ cấp y tế do lực lượng lao động tạo ra lại từ 36% trong hiện tại tăng đến mức 59%, cao nhất của Âu Châu. Cho nên bài toán ngân sách của đệ nhất cường quốc kinh tế Âu Châu sẽ là thiếu tiền. Đức chủ trương đón nhận di dân nhiều hơn xứ khác là vì lý do nhân khẩu và kinh tế. Nôm na là Đức hào phóng với di dân để nhập khẩu sức lao động.

- Nhưng trong vụ khủng hoảng hiện nay, sự rộng lượng ấy lại khiến Đức là thỏi nam châm thu hút nạn dân. Mà thiên hạ từ Bắc Phi, Trung Đông hay từ các khu vực bất ổn miền Đông Nam Âu Châu mà muốn vào Đức thì phải đi qua các nước ở vòng ngoài. Các nước này, như Hy Lạp, Hung thì cần phương tiện chu cấp cho dân tạm trú và cần xứ khác đón nhận nhiều và sớm để giảm sức ép. Vì thế, Chính quyền của Thủ tướng Angela Merkel mới bị áp lực từ các nước bên ngoài và bên trong thì nhiều người Đức lại lo sợ làn sóng nạn dân sẽ gây hỗn loạn, chưa nói đến nạn khủng bố.

Nguyên Lam: - Bàn về trường hợp của Đức thì người ta nhớ đến lập trường cùa nước Anh. Trong vụ khủng hoảng này, dường như là nước Anh lại rất kín tiếng. Ông giải thích thế nào về điều ấy?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Là quốc gia hải đảo thật ra cũng chật hẹp, Anh đã chẳng ký Hiệp ước Schengen và cố đứng ngoài vòng tranh luận – dù bị đả kích – vì không gặp bài toán nhân khẩu như Đức. Anh quốc sẽ là nước đông dân nhất Âu Châu: từ 67 triệu vào năm 2020 dân số Anh sẽ lên tới 80 triệu vào năm 2060. Nhìn cách khác, tỷ lệ sinh sản tại Anh thuộc loại cao nhất Liên Âu: trong quãng đời sinh sản của mình, bình quân một phụ nữ đẻ được 1,9 con . Nhờ các bà lạc quan yêu đời như vậy, tỷ số lệ thuộc tại Anh chỉ tăng từ 30% đến 43% trong khoảng thời gian dự phóng của Liên Âu từ 2020 đến 2060. Anh không có nhu cầu nhập khẩu lao động như Đức, lại  từng bị khủng bố Hồi giáo tấn công ngay trong ruột gan nên cố tránh né bài toàn di dân của các nước kia. Tôi nghĩ rằng vì vụ khủng hoảng này, cả Âu Châu sẽ phải duyệt lại chính sách di dân và những khác biệt quá lớn giữa các nước sẽ khiến Liên Âu càng bị rạn nứt vì vụ khủng hoảng.

Nguyên Lam: Xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc trao đổi này.

Thứ Tư, 9 tháng 9, 2015

Cơ Hội Cho Việt Nam

Nguyên Lam & Nguyễn Xuân Nghĩa, RFA Ngày 150909

Diễn đàn Kinh tế

Nhân công rẻ là lợi thế ngắn hạn, nâng suất cao mới là ưu thế trường kỳ


Lao động Việt Nam
* Lao động Việt Nam - File photo *
 


Sau ba tháng đầy biến động trên thị trường cổ phiếu rồi thị trường ngoại hối của Trung Quốc, giới quan sát quốc tế cho là chỉ dấu suy trầm kinh tế của Trung Quốc đã ngày càng rõ rệt hơn. Nhìn xa hơn thế, kinh tế Trung Quốc không chỉ hạ cánh mà còn có thể đi vào hướng khác trong các năm tới và mất dần lợi thế cạnh tranh của một xứ đông dân với nhân công rẻ. Vào hoàn cảnh đó, nhiều nền kinh tế khác, kể cả Việt Nam, lại có cơ hội phát triển mới. Diễn đàn Kinh tế tìm hiểu về cơ hội ấy qua phần trao đổi của Nguyên Lam với chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa.


Nguyên Lam: - Xin kính chào ông Nghĩa. Thưa ông, từ Tháng 11 đến nay, Trung Quốc năm lần hạ lãi suất để kích thích sản xuất mà sau cùng kinh tế vẫn trì trệ, cả xuất và nhập khẩu đều giảm nên tuần qua, lãnh đạo kinh tế xứ này lại hạ thấp chỉ tiêu tăng trưởng là điều không ai ngạc nhiên. Điều gây ngạc nhiên là sự lúng túng khi họ can thiệp vào thị trường chứng khoán rồi thị trường ngoại hối mà không hiệu quả trong khi dự trữ ngoại tệ lại sụt ở mức cực mạnh là Tháng Tám vừa qua mất gần 94 tỷ, nay chỉ còn ba ngàn 560 tỷ đô la. Tức là như ông phân tích kỳ trước, “kho đạn của Bắc Kinh” đang cạn dần. Cũng trên diễn đàn này thì từ năm 2013 rồi năm ngoái, ông có nói đến việc Bắc Kinh phải chuyển hướng kinh tế và tìm lợi thế phát triển khác hơn là một công xưởng toàn cầu, cho nên trật tự kinh tế của thế giới sẽ thay đổi lớn. Qua những biến động đang xảy ra thì hình như sự chuyển dịch ấy đã bắt đầu. Thưa ông, hôm nay ta lại nói về chuyện đó.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi thiển nghĩ rằng chúng ta không nên chỉ nhìn vào những dao động ngắn hạn của thị trường mà thẩm định sự chuyển động trường kỳ của các trào lưu lớn. Thí dụ như thị trường cổ phiếu Hoa Kỳ hốt hoảng sụt giá mươi hôm trước rồi hồ hởi lên giá vào hôm qua khi có những tin xấu tốt từ Trung Quốc. Khi nhìn vào Trung Quốc trong viễn cảnh dài, ta thấy xứ này có dân số đông, áp dụng chiến lược phát triển của Nhật Bản và Đông Á đi trước và khai thác lợi thế nhân công rẻ để làm gia công cho thế giới nhờ xuất khẩu hàng chế biến với giá thấp.

- Vì khởi đi từ gần số không, Trung Quốc có đà gia tăng lớn chẳng khác gì các nước kia vào những thập niên trước, mà thật ra Trung Quốc vẫn thiếu phẩm chất trong tăng trưởng. Khi ưu thế lương rẻ hết công hiệu từ ba năm trước, họ phải bước lên trình độ sản xuất cao hơn, có giá trị gia tăng lớn hơn như các nước tân hưng Đông Á là Nhật Bản, rồi Đài Loan và Nam Hàn. Nhưng vì quá lệ thuộc vào đầu tư và xuất khẩu, khi thấy toàn cầu bị Tổng suy trầm năm 2008, Bắc Kinh ào ạt bơm tiền kích thích kinh tế mà bơm không đúng chỗ và thổi lên bong bóng đầu cơ trong sản xuất thừa nên sẽ bị khủng hoảng như các nước Đông Á đã từng bị. Chúng ta đang chứng kiến chuyện này.

Ta nên nhớ lại như vậy vì vào thời điểm 2009, khối công nghiệp hoá bị co cụm và dồn đầu tư vào các nước đang lên để tìm cơ hội kiếm lời cao hơn vậy mà thật ra họ vẫn tránh VN vì nhiều sai lầm và lạm dụng trong quản lý vĩ mô. Bây giờ biến động tại Trung Quốc lại là một cơ hội mới cho VN. Nguyễn-Xuân Nghĩa


Nguyên Lam: Ông cho rằng những gì đang xảy ra tại Trung Quốc đã xuất hiện trước đó ở nơi khác nên chẳng có gì là đáng ngạc nhiên?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Chúng ta cần nhắc lại chuyện xưa để thấy là sau khi bị khủng hoảng năm 1991, Nhật Bản không dám cải sửa nên trải qua 20 năm lụn bại đến nay mới tạm hồi phục. Trái lại, Nam Hàn bị khủng hoảng năm 1997 mà lập tức cải cách nên có cơ sở vững mạnh hơn và cạnh tranh thắng lợi với chính Nhật Bản là một khuôn mẫu đi trước. Các bài học đó là kinh nghiệm cho Việt Nam khi môi trường chung quanh đang thay đổi, vừa mở ra cơ hội mới mà cũng đặt ra nhiều thách thức, chưa nói gì đến vấn đề an ninh vì vị trí riêng của xứ này bên cạnh Trung Quốc.

Nguyên Lam: Từ cái nhìn rộng mở về thời gian lẫn không gian để nói tới nhiều chuyển động đang xảy ra và kéo dài trong tương lai, thưa ông, đâu là các định đề chính mà Việt Nam cần quan tâm?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ là như mọi nước nghèo vừa bước vào giai đoạn "cất cánh" khi áp dụng quy luật thị trường, Việt Nam cần vốn nên phải huy động đầu tư ngoài quốc. Các nước kia, kể cả Trung Quốc, đều qua giai đoạn ấy. Khi đó, vấn đề chủ yếu là ta có gì hấp dẫn hơn xứ khác để thu hút đầu tư?


Tập đoàn Samsung tại Việt Nam
Tập đoàn Samsung tại Việt Nam


- Thế rồi, sau mấy năm hồ hởi khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO với lượng đầu tư quốc tế tăng vọt vào năm 2008, tình hình lại sa sút, từ đỉnh cao là hơn 70 tỷ đô la vào năm 2008 lại sụt tới 23 tỷ năm 2009 và mấy năm qua vẫn còn chật vật với yêu cầu này. Ta nên nhớ lại như vậy vì vào thời điểm 2009, khối công nghiệp hoá bị co cụm và dồn đầu tư vào các nước đang lên để tìm cơ hội kiếm lời cao hơn vậy mà thật ra họ vẫn tránh Việt Nam vì nhiều sai lầm và lạm dụng trong quản lý vĩ mô. Bây giờ biến động tại Trung Quốc lại là một cơ hội mới cho Việt Nam.


Nguyên Lam: Ông cho rằng Việt Nam cần xây dựng một môi trường thuận lợi cho đầu tư quốc tế khi các doanh nghiệp có thể rút khỏi thị trường Trung Quốc để tìm nơi có lợi hơn?

Khi huy động đầu tư để làm gia công cho thiên hạ thì đã phải nghĩ đến việc tiến lên lớp cao hơn của chu trình cung cấp và chế biến, để làm ra mặt hàng có giá trị hơn, đòi hỏi tay nghề và kỹ thuật khác. Khi đó ta mới hy vọng giữ khách đầu tư ở lại để tìm doanh lợi cao hơn. Nguyễn-Xuân Nghĩa

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Quy luật phũ phàng của kinh tế hay kinh doanh là "vui lòng khách đến, buồn lòng khách đi". Trong chuyện này, khách là các doanh nghiệp có vốn đầu tư.

- Thứ nhất, họ ào ạt trút tiền vào rồi thất vọng bảo nhau triệt thoái thì đều có thể gây chấn động cho nền kinh tế, đấy là điều các nước Đông Á đã thấy từ vụ khủng hoảng 1997-98. Thứ hai, các doanh nghiệp có thể quyết định đem tiền đầu tư vào rất nhanh thường là loại nhỏ và vừa, với yêu cầu khác biệt với các tập đoàn lớn. Đầu tư vào một quán bán thịt bầm ngoài phố hay một shop may có khác với đầu tư của Intel hay Samsung ở ngoại thành. Thứ ba và quan trọng nhất, Việt Nam nên nhớ lợi thế nhân công rẻ không là yếu tố bất biến và vĩnh cửu vì chúng ta bán sự nghèo khổ cho khách đầu tư bằng lương bổng thấp để mong nguồn vốn đó sẽ làm cho dân mình giàu hơn, tức là có lương cao hơn sau này. Cho nên ưu thế về lương sẽ hết và phải được thay thế bằng năng suất cao.

- Do đó, từ khi huy động đầu tư để làm gia công cho thiên hạ thì đã phải nghĩ đến việc tiến lên lớp cao hơn của chu trình cung cấp và chế biến, để làm ra mặt hàng có giá trị hơn, đòi hỏi tay nghề và kỹ thuật khác. Khi đó ta mới hy vọng giữ khách đầu tư ở lại để tìm doanh lợi cao hơn. Muốn vậy, nhân công của ta phải có năng suất, được giáo dục đào tạo theo hướng khác hơn là giữ khách bằng lương rẻ, vì ngoài Việt Nam còn vài chục xứ khác, kể cả Miên, Lào, Phi, Thái, Miến hay Bangladesh cũng khai thác lợi thế lương rẻ. Đó là chuyện trường kỳ mà mình nên sớm thấy ra.

Nguyên Lam: Thưa ông, ngay trong hiện tại thì Việt Nam có những lợi thế nào khả dĩ huy động được nguồn lực đầu tư của các nước một khi họ rút khỏi thị trường Trung Quốc vì xứ này cũng bước lên một cấp cao hơn hay vì họ gặp nhiều biến động ở bên trong?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi chưa lạc quan với việc dòng tiền từ Trung Quốc chảy vào Việt Nam. Trước hết, các tổ hợp quốc tế Âu-Mỹ-Nhật đã đầu tư vào Hoa lục từ lâu và xây dựng được chu trình cung cấp hội nhập, nôm na là làm cơ phận này để ráp chế với cơ phận khác cũng sản xuất tại Trung Quốc trước khi xuất ra ngoài. Với tình trạng thoái trào hiện nay, Bắc Kinh cố kích thích tiêu thụ thay vì  đầu tư sản xuất để xuất khẩu, vì vậy, thị trường nội địa của họ vẫn còn sự hấp dẫn nên chưa chắc là các tập đoàn đầu tư, kể cả Nhật Bản, đã rút hết và nhìn vào Việt Nam với thiện cảm nếu Việt Nam chưa có ưu thế nổi bật khi so với Trung Quốc, hay Malaysia hoặc Indonesia.

Nguyên Lam: Thưa ông, khi nhà đầu tư quyết định về việc bỏ vốn vào xứ này hay xứ khác, họ lập bảng tiêu chuẩn ra sao?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Khi tính đầu tư vào một xứ như Việt Nam chẳng hạn, thiên hạ chú ý đến đến hạ tầng cơ sở. Hạ tầng ấy có loại vật chất là hệ thống xây dựng, giao thông vận tải lẫn hủy thải phế vật để bảo vệ môi trường sinh sống. Tai nạn dồn dập tại Thiên Tân hay Sơn Đông bên Tầu là cơ hội tiếp thu kinh nghiệm để tránh và để trình bày ưu thế của mình nếu có.

- Hạ tầng này cũng có loại vô hình là nền tảng luật lệ công minh và bộ máy hành chính liêm khiết, hữu hiệu. Thứ ba, hạ tầng này còn có loại tinh thần là trình độ kiến năng, là kiến thức và khả năng, của nhân công vì các tổ hợp quốc tế suy nghĩ cho 5-10 năm tới chứ không chơi trò mỳ ăn liền. Trong năm 10 năm đó, họ sẽ đào tạo ra lớp nhân viên có tay nghề và khả năng tiến lên bậc thang cao hơn của chu trình sản xuất. Vì thế, họ quan tâm đến giáo dục và đào tạo, nhất là trong các ngành kỹ thuật và quản trị.

Khi Intel hay Samsung trút bạc tỷ vào Việt Nam và đào tạo một thế hệ mới có khả năng rất cao về công nghệ tin học thì Hà Nội lại đòi bịt mắt giới trẻ bằng mạng lưới kiểm soát thông tin và gây phản ứng từ quốc tế thì đấy là một cách chứng minh rằng Hà Nội cũng chẳng khác Bắc Kinh! Nguyễn-Xuân Nghĩa
- Khi kiểm lại dù sơ sài như vậy, ta cũng thấy ra nhiều nhược điểm của môi trường Việt Nam là chưa có trục lộ giao thông hay mạng lưới yểm trợ hạ tầng tỏa rộng mà chỉ tập trung vào Sàigon, vùng đồng bằng Cửu Long và chung quanh Hà Nội, Đà Nẵng. Việt Nam cần khai thác tiềm lực của các địa phương khác thì mới có được sự phát triển cân đối và công bằng, là điều Trung Quốc muốn làm từ lâu mà thất bại nên mới rơi vào thoái trào.

Nguyên Lam: Một cách lạc quan thì Việt Nam có ưu thế tương đối nào không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Người dân Việt Nam nổi tiếng cần cù hiếu học, thế giới đã công nhận nét văn hóa đặc sắc ấy khi tiếp nhận di dân Việt Nam từ bốn chục năm qua. Dân Việt Nam cũng ưa chuộng kinh tế thị trường và tư nhân đang cố thoát khỏi những câu thúc lạc hậu của bộ máy công quyền. Và Việt Nam có dân số đủ lớn để thị trường tiêu thụ nội địa cũng là điểm hấp dẫn.

- Sau cùng, ưu thế của Việt Nam bên một Trung Quốc thoái trào trong những năm tới là việc Việt Nam có thể cải thiện luật lệ và môi trường kinh doanh lao động để gia nhập Hiệp ước TPP. Nên xây dựng ưu thế đó ngay từ bây giờ chứ đừng tranh cãi để bảo vệ nguyên trạng tồi tệ hiện nay. Đấy mới là cách thoát Tầu để có ngày cạnh tranh với Tầu trong nhiều lĩnh vực và sự hiện hữu của cộng đồng người Việt ở hải ngoại cũng là cơ hội và đòn bẩy đáng kể nếu ta biết coi trọng nhân quyền và dân quyền.

Nguyên Lam: Câu hòi cuối thưa ông, nói về hạ tầng cơ sở của kiến năng và cả sự hỗ trợ của người Việt ở bên ngoài như ông trình bày, thì người ta không quên Nghị định 72 ban hành mấy năm trước về việc kiếm soát mạng lưới điện toán. Ông nghĩ sao về chuyện này?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ rằng đấy là tai họa vô lường và là một vụ tự sát chính trị!

- Khi Intel hay Samsung trút bạc tỷ vào Việt Nam và đào tạo một thế hệ mới có khả năng rất cao về công nghệ tin học thì Hà Nội lại đòi bịt mắt giới trẻ bằng mạng lưới kiểm soát thông tin và gây phản ứng từ quốc tế thì đấy là một cách chứng minh rằng Hà Nội cũng chẳng khác Bắc Kinh!

- Từ đó, thiên hạ lại suy ra chuyện khác. Cái gọi là ưu thế ổn định chính trị của Việt Nam cũng chỉ là chuyện ảo. Giới đầu tư quốc tế sớm hiểu ra nỗi lo sợ của chế độ và còn thấy rõ hơn khi lãnh đạo  Việt Nam vẫn duy trì vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước để bảo vệ quyền lợi của tay chân và thân tộc. Nói cách khác, nếu Việt Nam chỉ là một sao bản con con của Trung Quốc thì chưa thể là một giải pháp thay thế khi người ta đã thất vọng với Trung Quốc.

Nguyên Lam: Xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc trao đổi này.

Thứ Tư, 2 tháng 9, 2015

“Kho Đạn” của Bắc Kinh

Nguyên Lam & Nguyễn Xuân Nghĩa, RFA Ngày 150902
Diễn đàn Kinh tế 

Bắc Kinh Còn Bao Nhiêu Tiền Để Cấp Cứu Kinh Tế?
 
Đôla Mỹ và đồng nhân dân tệ của Trung Quốc
* Đôla Mỹ và đồng Nguyên của Trung Quốc - Photo: RFA
 
 



Sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới từ năm 2001, Trung Quốc liên tục đạt xuất siêu và tích lũy một khối dự trữ ngoại tệ cao nhất thế giới vì tương đương với bốn ngàn tỷ Mỹ kim. Khi kinh tế hụt hơi thì khối dự trữ đó có thể là một loại quỹ chiến tranh để Bắc Kinh đối phó với thách đố của tình hình không? Diễn đàn Kinh tế tìm hiểu chuyện này qua phần trao đổi của Nguyên Lam với chuyên gia Nguyễn-Xuân Nghĩa, tư vấn kinh tế của ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do.

Nguyên Lam: Xin kính chào ông Nghĩa. Thưa ông, từ vài ngày qua, nhiều nguồn tin quốc tế báo tin là lãnh đạo Trung Quốc bắt đầu bán Công khố phiếu Hoa Kỳ trong kho dự trữ ngoại tệ để có thanh khoản ứng phó với nhiều khó khăn tài chính trước mặt. Động thái ấy gây quan ngại cho thị trường Hoa Kỳ vì có thể làm sụt giá trái phiếu và tăng phân lời hay lãi suất tại Mỹ. Trước khi tìm hiểu về hậu quả của biện pháp này, chúng ta sẽ vào cái gốc của hồ sơ ngoại hối của Bắc Kinh, là kho dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc. Xin đề nghị ông lần lượt trình bày cho bối cảnh của vấn đề.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Sau khi được gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO vào năm 2001, Trung Quốc mở rộng việc buôn bán với thế giới bên ngoài và đạt mức xuất siêu rất cao, là xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu. Nhờ số xuất siêu và chế độ kiểm soát ngoại hối, là can thiệp vào việc mua bán ngoại tệ với tỷ giá thấp của đồng nội tệ là đồng Nguyên, Trung Quốc tích lũy được một khối dự trữ ngoại tệ rất cao, có lúc được ước lượng là lên tới gần bốn ngàn tỷ.

- Chúng ta không quên là vào giai đoạn ấy, các nước Đông Á vừa bị vụ khủng hoảng tài chính biến thái thành khủng hoảng kinh tế nên xứ nào cũng có phản ứng tích lũy một khối ngoại tệ thật cao. Trung Quốc cũng vậy, mà dùng chính sách ngoại hối là hối suất thấp của đồng Nguyên để đông lạnh số tiền chảy vào kinh tế nhờ xuất khẩu nên mới có lượng dự trữ thuộc loại cao nhất.

- Với nhiều người thì đấy là một kho đạn hay một “quỹ chiến tranh” có thể giúp xứ này đối phó với dao động của thị trường và còn tác động vào quan hệ kinh tế với các nước khác theo chiều hướng có lợi cho mình. Thật ra tình hình đã đổi khác từ vài năm nay nên kho đạn ấy sắp cạn!

Nguyên Lam: Như mọi khi, ông khởi sự với một kết luận gây chú ý là kho đạn của Bắc Kinh đang cạn trong khi thế giới lại sợ rằng một chủ nợ của nước Mỹ đang bán tài sản làm kinh tế Hoa Kỳ sẽ bị ảnh hưởng. Vì vậy, chúng ta tìm hiểu tiếp xem Trung Quốc đã làm gì với kho dự trữ ấy?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Nói chung, khi có một lượng tài sản trong tay, người ta không cất vào kho vì tài sản ấy có thể mất giá, mà nên đem đầu tư ra ngoài. Nhưng khi đầu tư thì cũng phải tính rằng đầu tư vào đâu thì có lời mà vẫn có thể kịp thời đổi ra tiền mặt cho an toàn. Vì vậy, có hai tiêu chuẩn quyết định cho việc sử dụng khối dự trữ ngoại tệ ấy, là đầu tư có lời mà an toàn.

- Theo hai tiêu chuẩn ấy, Trung Quốc đầu tư vào thị trường trái phiếu Hoa Kỳ, tức là cho nước Mỹ vay tiền bằng cách mua Công khố phiếu Mỹ. Lý do ở đây là thứ nhất, thị trường trái phiếu Hoa Kỳ có đặc tính sâu rộng nhất, lớn hơn tổng số của năm nước đi sau; và thứ hai, có mức lưu hoạt cao nhất, nghĩa là dễ đổi ra tiền mặt đem về cho an toàn mà ít bị mất giá. Thí dụ cho đơn giản là trên thị trường Mỹ, nếu có đem vào hay rút ra cả trăm tỷ thì cũng không gây dao động mạnh như với thị trường Nhật, Euro hay thị trường Anh, hoặc đồng Phật lăng Thụy Sĩ. Vì vậy, Bắc Kinh mới “chọn mặt gửi vàng”, bằng cách gửi tiền cho Mỹ vay.

- Huống hồ việc đó còn có lợi về ngoại thương cho Bắc Kinh là nhờ tiền nhiều và rẻ, thị trường Mỹ càng nhập khẩu hàng hóa và tạo ra việc làm cho nhân công Trung Quốc. Vì vậy, cùng với đà xuất siêu, Trung Quốc trở thành chủ nợ lớn nhất của Hoa Kỳ, với tài sản Mỹ trị giá khỏang một ngàn bốn trăm tỷ đô la qua nhiều ngả đầu tư khác nhau.

Nguyên Lam: Có lẽ thính giả của chúng ta đang hiểu ra điều ông đã trình bày kỳ trước là một thế “phân công lao động” kỳ lạ, là Trung Quốc cho Mỹ vay tiền để dễ mua hàng của Trung Quốc và đôi bên đều có lọi trong thế hợp tác này. Có phải là như vậy không, thưa ông?


Hồi tháng 8 vừa qua Trung quốc đã cho phá giá đồng nhân dân tệ tới gần 2%
Hồi tháng 8 vừa qua Trung quốc đã cho phá giá đồng nhân dân tệ tới gần 2%
 

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa đúng vậy, nhưng ở đây ta nên chú ý đến hai mặt ấn tượng và thực tế hay hiện tượng và bản chất.

- Về hiện tượng thì Trung Quốc được tiếng là chủ nợ số một của Mỹ, tức là có thể chi phối kinh tế và cả chính trị Hoa Kỳ. Khi ấy, đã có người ví von với ngụ ngôn rằng Tầu là con kiến chắt bóp để nuôi con ve sầu Mỹ cứ ve ve suốt mùa Hè! Nhưng về thực chất thì như ta nói kỳ trước, họ giàng số phận kinh tế vào sức tiêu thụ của thị trường Mỹ, của người dân Mỹ. Sự thật thì Trung Quốc quá lệ thuộc vào xuất khẩu mà thị trường Mỹ lại chỉ nhập khẩu có 12% nhu cầu tiêu thụ. Hậu quả là Bắc Kinh được tiếng là chủ nợ số một của Mỹ mà cái miếng hay thực lực lại là túi bạc của dân Mỹ. Kể từ năm 2008, khi dân Mỹ tiêu xài ít và nhập khẩu ít hơn là Trung Quốc bắt đầu lâm nạn.

- Tôi phải nhắc lại và nhấn mạnh đến quan hệ ấy vì nhiều người có cảm quan sai, kể cả vài chính trị gia ồn ào của Hoa Kỳ, rằng Bắc Kinh có ý đồ lũng đoạn kinh tế Mỹ qua chính sách ngoại hối với đồng bạc rẻ để thành chủ nợ của Hoa Kỳ. Thực chất ở đây lại khác. Dù Bắc Kinh có ý thao túng đi nữa thì khách nợ số một là Mỹ mới nắm dao đằng chuôi với khoản tài sản rất lớn do Bắc Kinh gửi sang Mỹ qua khối Công khố phiếu này.

- Sáu năm về trước, một giới chức kinh tế cao cấp của Bắc Kinh đã than là dù ghét Mỹ lắm thì vẫn phải cho Mỹ vay tiền, tức là vẫn đầu tư tài sản của mình vào thị trường Hoa Kỳ. Vì vậy họ cố tìm các ngả đầu tư khác để dần dần bớt lệ thuộc vào mức tiêu xài của Hoa Kỳ. Chuyện ấy đã rõ rệt hơn kể từ năm 2013. Nói cho cùng, nếu kinh tế Trung Quốc thật sự vững mạnh và ổn định thì họ thiếu gì cơ hội đầu tư ở bên trong mà vì sao cứ gửi qua Mỹ với phân lời quá rẻ. Chỉ vì sự an toàn!

Nguyên Lam: Câu chuyện quả là ly kỳ! Bây giờ, ta mới nói đến kho đạn của Trung Quốc. Thưa ông, Bắc Kinh hiện có bao nhiêu tiền và xoay trở thế nào với cơn sóng gió tài chính đang xảy ra?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Theo các ước tính mới nhất thì dự trữ ngoại tệ của Bắc Kinh vào cuối Tháng Bảy lên tới ba ngàn 650 tỷ đô la, có giảm so với số cao nhất là gần bốn ngàn tỷ năm 2013. Trong số đó, Bắc Kinh có chừng một ngàn 200 tỷ trực tiếp mua Công khố phiếu của Mỹ và cỡ 200 tỷ mua gián tiếp qua một cơ sở của họ tại Bỉ, vị chi là 1.400 tỷ, dù có nhiều thì vẫn chưa tới 10% của số công trái Mỹ. Còn lại là hai ngàn 250 tỷ thì có 900 tỷ cam kết vào các kế hoạch bành trướng thế lực kinh tế của Bắc Kinh, như Ngân hàng Đầu tư Hạ tầng Cơ sở Á châu AIIB, hay Tân Ngân hàng Phát triển của nhóm BRICS, và hàng loạt dự án trong kế hoạch Nhất Đới Nhất Lộ của Con Đương Tơ Lụa. Ngoài ra, Bắc Kinh vừa trích ra  48 tỷ đô la cho Ngân hàng Phát triển Trung Quốc CDB và 45 tỷ đô la cho Ngân hàng Xuất Nhập Cảng Export-Import Bank of China.

- Bây giờ, giữa cơn khủng hoảng, nếu Bắc Kinh muốn giữ giá đồng Nguyên trong một hạn ngạch nhất định từ nay đến cuối năm thì có thể mất thêm mỗi tháng 40 tỷ đô la, tức là nội năm nay sẽ mất 200 tỷ nữa. Tất cả những số liệu trên chỉ là ước lượng và còn có thể thay đổi hàng ngày qua nhiều biến động dồn dập như ta có thể thấy trên các thị trường quốc tế. Và mình cũng chẳng nên quên núi nợ khổng lồ của Trung Quốc có thể đã vượt quá 28 ngàn tỷ đô la.

Nguyên Lam: Thưa ông, phải chăng vì vậy mà tuần qua Bắc Kinh bắt đầu bán Công khố phiếu Mỹ để thu về đồng đô la hầu ứng phó với những đòi hỏi mới? Nếu như vậy thì hậu quả sẽ là gì cho thị trường Hoa Kỳ?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Vì cảm quan ấn tượng sai, nhiều người cứ lo rằng khi Bắc Kinh bán Công khố phiếu Mỹ thì sẽ gây bất lợi cho Hoa Kỳ vì làm trái phiếu Mỹ mất giá, tức là làm tăng phân lời trái phiếu trên thị trường Hoa Kỳ khiến kinh tế Mỹ gặp khó khăn. Sự thật lại rắc rối hơn vậy.

- Việc Bắc Kinh bán tháo Công khố phiếu Mỹ không làm tăng lãi suất ngắn hạn trên thị trường Hoa Kỳ. Lãi suất ngắn hạn ấy là do Ngân hàng Trung ương Mỹ quyết định và có thể tăng nhẹ từ nay đến cuối năm sau khi đã hạ tới sàn từ cuối năm 2008. Lãi suất dài hạn thì tùy vào sự tính toán của thị trường theo quy luật cung cầu, nhưng tính toán đó thật ra vẫn căn cứ trên lãi suất ngắn hạn. Trong mấy ngày qua, khi Bắc Kinh kín đáo thông báo cho Bộ Ngân khố Hoa Kỳ và bắt đầu xả Công khố phiếu ra ngoài thì phân lời trái phiếu, là lãi suất dài hạn tại Mỹ, lại chẳng tăng như người ta sợ hãi. Ngay trong giả thuyết là phân lời tăng vọt vì sự hốt hoảng của thị trường thì Ngân hàng Trung ương Mỹ vẫn thừa khả năng chống đỡ. Đó là hoãn nâng lãi suất, hoặc thậm chí dùng lại biện pháp bất thường là “tăng mức lưu hoạt có định lượng” hay “quantitative easing”. Cụ thể là  mua vào Công khố phiếu và trả bằng đồng đô la, tức là bơm tiền vào kinh tế.

- Nhìn cách khác, nếu Bắc Kinh bán tháo tài sản của họ dưới dạng Công khố phiếu Mỹ thì tài sản đó càng mất giá và họ sẽ lỗ nhiều hơn khi tiếp tục bán ra. Ngược lại, hậu quả là việc Mỹ kim sụt giá chưa chắc đã gây họa cho Hoa Kỳ: tiền Mỹ càng sụt giá thì hàng Mỹ thêm rẻ và càng dễ bán. Hãy nhìn Nhật Bản mà xem, từ ba năm nay, Chính quyền của Thủ tướng Shizo Abe chỉ mong đồng Yen sụt giá để cứu nguy kinh tế của mình. Vả lại, tiền Mỹ sụt giá lại còn giảm áp suất quá tai hại hiện nay cho nhiều nước Á Châu!

Nguyên Lam: Nguyên Lam xin tổng kết cuộc trao đổi về “kho đạn của Bắc Kinh”. Thưa ông, thính giả của chúng ta nên ghi nhận những gì từ các chi tiết quá phức tạp về kinh tế tài chính lẫn chính trị của kho dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Lãnh đạo Bắc Kinh giàng số phận kinh tế của mình vào sức tiêu thụ và nhập khẩu của xứ khác nên lệ thuộc vào thiên hạ mà cứ tưởng là có thể xưng hùng xưng bá với khối dự trữ ngoại tệ rất cao. Thật ra, họ thắt lưng buộc bụng người dân để có một kho đạn chủ yếu vẫn là Made in USA. Có những lúc họ tưởng rằng sẽ dùng kho dự trữ ấy như võ khí để ép Mỹ mà chẳng biết là họ chỉ kê khẩu súng nước vào đầu nhà tiêu thụ Hoa Kỳ đang khát nước mà thôi!

- Phũ phàng hơn vậy là nay họ mới thấy mình hết đạn vì chỉ còn chừng 700 tỷ đô la để đối phó với đời. Khi ấy, mỗi tháng có thể mất 40 tỷ để giữ giá đồng Nguyên, hoặc sẽ mất 40 tỷ vì nạn tẩu tán tài sản khi đồng Nguyên sụt giá. Mất cửa này hay cửa khác thì cũng là mất thế lực và uy tín của một quốc gia chỉ có cái thế mà chưa có cái lực!

Nguyên Lam: Xin cảm tạ ông Nghĩa đã phân tích sự thể rất đỗi ly kỳ này.