Cơn đau gút cấp có thể kéo dài vài ngày hoặc vài tuần và sẽ tự bớt. Tuy nhiên, nếu không điều trị kịp thời, các cơn đau này sẽ xuất hiện thường hơn và gây ra biến dạng hủy khớp, dẫn đến tàn phế.
Bệnh gút (gout - tiếng Anh hay goutte - tiếng Pháp) là bệnh nằm trong nhóm lắng tụ các tinh thể, cụ thể là lắng tụ tinh thể monosodium urat trong các khớp do tình trạng acid uric tăng cao trong máu, gây ra các đợt viêm khớp ngoại biên của chân tay, đặc biệt hay xảy ra ở ngón chân cái.
Cơ chế viêm do các con bạch cầu - được ví như các lính chiến đấu trong cơ thể - gây ra khi đi dọn dẹp các tinh thể urat. Nguyên nhân tăng acid uric trong máu là do thận không thải được acid uric hoặc do cơ thể tạo ra quá nhiều (do ăn uống, do bệnh lý như ung thư máu dạng lim-phô, thiếu máu tán huyết, vảy nến…) hoặc do bất thường trong chu trình tạo ra acid này.
Những dấu hiệu bị gút
Sở dĩ bệnh có tên gút là vì ở những người bệnh hay mọc ra các cục ở khuỷu, gối, ngón chân, mắt cá hình tròn tròn dài dài như giọt nước (chữ gout hay goutte có nghĩa là giọt, cục). Lâm sàng của cơn gút cấp khá đặc trưng nên thường được chẩn đoán chỉ qua hỏi bệnh sử và thăm khám bệnh nhân, điển hình là viêm của khớp đốt bàn - ngón chân cái, kèm với nồng độ acid uric trong máu cao. Chẩn đoán lâm sàng có độ chính xác hợp lý nhưng không đủ để quyết định, trừ phi có các tinh thể acid uric chứng minh được.
Acid uric trong máu cao tuy có giá trị trong chẩn đoán nhưng lại không có tính chuyên biệt. Thử nồng độ acid uric trong máu thường là cao > 7 mg/dL. Tuy không phải tất cả những người có acid uric cao trong máu đều bị cơn gút, nhưng nếu nồng độ acid uric trong máu cao và kéo dài càng lâu thì càng có nhiều khả năng bị gút.
Chúng tôi đã từng gặp những bệnh nhân kết quả thử acid uric bình thường (vì có thể đã uống thuốc trước đó) nhưng gối vẫn sưng và khi nội soi gối thấy các tinh thể acid uric lắng tụ đầy bên trong khớp, gây viêm màng bao khớp gối.
Cách tốt nhất để khẳng định chẩn đoán gút là chọc hút dịch trong khớp bị gút, đem soi dưới kính hiển vi để thấy các tinh thể monosodium urat hình kim hay tophi. Trong thực tế phương pháp này chỉ được thực hiện khi thật cần thiết.
Cũng có thể chẩn đoán gút bằng phương pháp: nhuộm gram và cấy dịch khớp (vì thường có sự kết hợp giữa gút với nhiễm khuẩn); chụp X-quang khớp (cho thấy hình ảnh tổn thương xơ hóa xương dưới sụn hoặc có thể thấy các tophi ở các giai đoạn muộn); thử glucose và lipids trong máu (vì gút thường kết hợp với tăng đường huyết và mỡ máu)...
Bệnh chưa thể chữa dứt
Bệnh gút thường mở đầu bằng các cơn gút cấp. Cơn gút cấp được định nghĩa là viêm khớp với sự lắng tụ các tinh thể urat trong các khớp, dẫn đến viêm cấp và cuối cùng làm hư hại các mô. Nếu không điều trị hoặc để cơn gút xảy ra nhiều lần sẽ gây hủy khớp, đưa đến tàn phế, lúc đó phải phẫu thuật tái tạo lại khớp. Cơn gút cấp có thể bị đẩy lùi bằng các thuốc hiện có và chế độ ăn kiêng nhưng nên nhớ, đây là loại bệnh y học chưa thể chữa dứt, nghĩa là bệnh nhân phải chấp nhận ăn kiêng và theo dõi bệnh suốt đời.
Những bệnh nhân bị các cơn gút cấp liên tiếp hay dai dẳng, nhiều năm sau sẽ chuyển sang gút mạn tính kèm các tophi. Tophi được coi là biến chứng muộn của gút, biểu hiện bởi những cục thấy ở dưới da tại các khớp, các túi hoạt dịch, sụn, xương ở nhiều nơi trong cơ thể, hình thành do sự lắng tụ các tinh thể urat. Tophi có thể vỡ ra ngoài da, có màu trắng hay vàng nhạt - trắng.
Khoảng 20% bệnh nhân gút bị sỏi thận do lắng tụ các tinh thể urat (cũng như các tinh thể calci), gây ra sỏi. Sỏi có thể làm tắc nghẽn đường tiết niệu, đưa đến nhiễm trùng tiểu và suy chức năng thận, có thể ảnh hưởng tính mạng. Một số biến chứng khác của gút: giảm độ lọc cầu thận; độ nặng của gút cũng liên quan đến một tỷ lệ cao của bệnh tim thiếu máu; tàn phế do hư hại nặng của các khớp...
Điều trị và dự phòng
Có thể đẩy lui các cơn gút cấp, ngăn ngừa các cơn gút xảy ra bằng các loại thuốc như: colchicine (tác dụng giảm đau và kháng viêm, dùng điều trị và dự phòng các cơn gút cấp), allopuriod (ức chế sự hình thành acid uric), các thuốc kháng viêm không steroid, các thuốc giảm đau khác. Chế độ ăn kiêng các loại thực phẩm có quá nhiều purine như: thịt, nội tạng động vật, hải sản, bột yến mạch, đậu nành…
Có thể uống rượu tí chút (ít nhất mỗi tuần có ba ngày nhịn rượu hoàn toàn). Tránh uống bia đen nặng. Uống nhiều nước và kiềm hóa nước tiểu bằng natri bicacbonat. Bỏ thuốc lá. Tập thể dục, giảm cân. Theo dõi nồng độ acid uric định kỳ. Không phải kiêng cữ thái quá vì có thể dùng thuốc để tăng tốc độ thải trừ acid uric.
Điều trị phẫu thuật nội soi khớp có vai trò làm sạch khớp, cắt bớt bao hoạt dịch của khớp khi bị viêm nhiều lần gây dày, hạn chế vận động của khớp. Một khi khớp bị hư hoàn toàn thì có thể thay khớp bằng khớp nhân tạo. Những ai đã lỡ bị bệnh này nên kiểm tra nồng độ acid uric trong máu và nhớ dùng thuốc đều đặn.
Tăng Hà Nam Anh
ThS.BS, phó chủ tịch hội Y học thể thao và Nội soi khớp Đông Nam Á
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét