Thứ Tư, 21 tháng 11, 2007

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ÁP DỤNG PHONG TỤC, TẬP QUÁN TRONG GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ths. Nguyễn Hồng Hải
Khoa Luật dân sự - Đại học Luật Hà Nội
Kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, phong tục, tập quán tốt đẹp trong gia đình Việt nam là một trong các nhiệm vụ cơ bản của Luật hôn nhân và gia đình. Để cụ thể hoá nhiệm vụ này, khoản 1 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 qui định trách nhiệm của Nhà nước và xã hội: “Vận động nhân dân xoá bỏ phong tục, tập qúan lạc hậu về hôn nhân và gia đình, phát huy truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp thể hiện bản bản sắc của mỗi dân tộc; xây dựng quan hệ hôn nhân và gia đình tiến bộ”, và Điều 6 Luật này đã khẳng định: “Trong quan hệ hôn nhân và gia đình, những phong tục, tập quán thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc mà không trái với những nguyên tắc qui định tại Luật này thì được tôn trọng và phát huy”. Vận dụng các qui định của pháp luật, trong thực tiễn xét xử của Toà án nhân dân các cấp, đặc biệt Toà án ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa đã áp dụng nhiều phong tục, tập quán để giải quyết các tranh chấp về hôn nhân và gia đình. Bên cạnh những thành công, thực tế khảo sát ở một số tỉnh miền núi thường xuyên áp dụng phong tục, tập quán cho thấy hiệu quả còn chưa cao, còn nhiều vấn đề bất cập, có đến một nửa số bản án, quyết định viện dẫn tập qúan để giải quyết tranh chấp không được Viện kiểm sát, Toà án cấp phúc thẩm chấp nhận. Ngay đối với các đoàn thể xã hội cũng chỉ chấp nhận, đồng tình với 58,3% các bản án, quyết định có áp dụng tập quán.(1)
Theo chúng tôi, nguyên nhân cơ bản của vấn đề này là Toà án các cấp chưa thống nhất về quan niệm, về các nguyên tắc và điều kiện đặt ra trong áp dụng phong tục, tập quán dẫn đến tình trạng áp dụng không đúng, lạm dụng hoặc đi ngược lại tâm tư, nguyện vọng của cộng đồng dân cư nơi có phong tục, tập quán. Trong bài viết này, chúng tôi xin đề cập vài nét về vấn đề này.

1. Khái niệm chung về phong tục, tập quán hôn nhân và gia đình

Phong tục, tập quán là một khái niệm phức tạp, tuy nhiên có thể được hiểu là: "những thói quen đã được mọi người tuân thủ tại một địa phương trong một hoàn cảnh bắt buộc phải chấp nhận lề thói ấy như một phần luật pháp của địa phương"(2). Như vậy, phong tục, tập quán thực chất là những qui tắc xử sự mang tính cộng đồng, phản ánh nguyện vọng qua nhiều thế hệ của toàn thể dân cư trong một cộng đồng tự quản (làng, xã, khu vực). Các qui tắc này được sử dụng để điều chỉnh các quan hệ xã hội nói chung, quan hệ hôn nhân và gia đình nói riêng mang tính tộc người hoặc mang tính khu vực. Với vai trò như vậy, phong tục, tập quán và việc áp dụng phong tục, tập quán về hôn nhân và gia đình mang những ý nghĩa cơ bản sau:

Thứ nhất, phong tục, tập quán là một bộ phận cấu thành căn bản của truyền thống văn hoá và giá trị đạo đức trong gia đình Việt nam. áp dụng phong tục, tập quán là một là một trong các biện pháp cần thiết để bảo vệ các bản sắc văn hoá và chuẩn mực đạo đức truyền thống của gia đình Việt nam hiện đang có nguy cơ bị mất dần dưới tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường và sự mở rộng giao lưu quốc tế.

Gia đình Việt nam là một thiết chế xã hội, đồng thời được quan niệm như là một tập hợp các truyền thống văn hóa và giá trị đạo đức, sự phát triển của gia đình gắn liền với qui luật kế thừa và phát triển. Nghĩa là, trong gia đình các giá trị văn hoá và chuẩn mực đạo đức truyền thống cùng tồn tại với các giá trị văn hoá và chuẩn mực đạo đức được hình thành trong điều kiện kinh tế - xã hội mới.

Một quan hệ hôn nhân và gia đình mới, phản ánh các giá trị và chuẩn mực đạo đức phù hợp với các điều kiện kinh tế - xã hội mới, chỉ thể hiện được tính chất tiến bộ, bền vững và phổ biến khi được xây dựng, củng cố trên nền tảng văn hoá và đạo đức truyền thống của gia đình. Ngược lại, việc xây dựng và củng cố các quan hệ hôn nhân và gia đình mới, tiến bộ là cơ sở và là tiêu chí để khẳng định, bổ sung và phát triển về chất cho các giá trị văn hoá và chuẩn mực đạo đức truyền thống. Một truyền thống, phong tục, tập quán trong điều kiện kinh tế - xã hội mới dù tốt đẹp đến mấy cũng không thể tạo ra bản sắc và tính bền vững cho gia đình nếu không đưọc bổ sung và phát triển bằng các giá trị văn hoá và chuẩn mực đạo đức được hình thành trong điều kiện kinh tế - xã hội đó.

Xuất phát từ mối quan hệ biện chứng trên, việc ghi nhận kế thừa, phát huy truyền thống đạo đức, phong tục tập quán tốt đẹp trong gia đình là một trong các nhiệm vụ cơ bản của Luật HN-GĐ, không mâu thuẫn với nhiệm vụ xây dựng và củng cố quan hệ hôn nhân và gia đình mới. Ngược lại, chúng là hai mặt không thể thiếu trong thực hiện mục tiêu về gia đình trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra là: "Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, và hạnh phúc, làm cho gia đình thực sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là tổ ấm cho mỗi người. Phát huy trách nhiệm của gia đình trong việc lưu truyền những giá trị văn hoá dân tộc từ thế hệ này sang thế hệ khác. Thực hiện tốt Luật hôn nhân và gia đình"(3).

Thứ hai, Cùng với qui phạm pháp luật hôn nhân và gia đình, phong tục, tập quán là công cụ điều chỉnh hữu hiệu các quan hệ hôn nhân và gia đình, đặc biệt các quan hệ hôn nhân và gia đình mang tính sắc tộc và khu vực

Xuất phát từ bản chất vừa là thiết chế xã hội, vừa là tập hợp các giá trị truyền thống văn hoá và đạo đức, các quan hệ hôn nhân và gia đình đồng thời chịu sự qui định của cả qui phạm pháp luật và phong tục, tập quán. Thực tế đó đòi hỏi, để điều chỉnh tốt nhóm quan hệ xã hội này, cần có sự kết hợp hài hoà, hỗ trợ, bổ sung giữa các qui phạm pháp luật và phong tục, tập quán.

Điểm chung giữa qui phạm pháp luật và phong tục, tập quán về hôn nhân và gia đình là cùng thực hiện mục tiêu làm ổn định các quan hệ xã hội trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, thúc đẩy sự phát triển của xã hội nói chung và gia đình nói riêng. Tuy nhiên, xét về đối tượng, phạm vi, cấp độ điều chỉnh giữa chúng có sự khác biệt nhất định.

Các qui phạm pháp luật là công cụ điều chỉnh hữu hiệu, nhất thể và bao trùm trong xây dựng và củng cố chế độ hôn nhân và gia đình. Song, pháp luật chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội mang tính phổ biến, điển hình và khách quan, nên, dù xã hội đã phát triển ở trình độ cao, pháp luật HN-GĐ đã ở mức hoàn thiện, vẫn còn những quan hệ xã hội trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình chưa có hoặc chưa được các qui phạm pháp luật điều chỉnh. Trong khi đó, trên thực tế, những quan hệ xã hội này vẫn tiếp tục tồn tại, không thể không có sự điều chỉnh để tạo sự ổn định và loại bỏ những mâu thuẫn trong sự phát triển của chúng. Để giải quyết mâu thuẫn giữa phạm vi điều chỉnh của pháp luật và nhu cầu khách quan của xã hội, cần thực hiện chính sách đa dạng hoá pháp luật, một trong các giải pháp là áp dụng các phong tục, tập quán về hôn nhân và gia đình.

Như đã nói ở trên phong tục, tập quán thực chất là những qui tắc xử sự mang tính cộng đồng, phản ánh nguyện vọng qua nhiều thế hệ của toàn thể dân cư trong một cộng đồng tự quản (làng, xã, khu vực). Các qui tắc này được sử dụng để điều chỉnh các quan hệ xã hội nói chung, quan hệ hôn nhân và gia đình nói riêng mang tính tộc người hoặc mang tính khu vực. Do đó, các thành viên của cộng đồng thường tin tưởng vào tính công bình, sáng suốt, chính xác của các qui tắc xử sự này, nên chúng thường có tính hiệu lực cao (đặc biệt, khi những phong tục, tập quán được phát triển dưới hình thức hương ước hoặc luật tục). Nếu biết sử dụng, kết hợp, phong tục, tập quán sẽ là sự hỗ trợ tốt cho các qui phạm pháp luật HN-GĐ trong điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình, đặc biệt ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội còn chưa phát triển.

Thứ ba, phong tục, tập quán có một ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình tố tụng và đưa ra đường lối giải quyết các tranh chấp về hôn nhân và gia đình mang tính tộc người và khu vực.

Trong các tranh chấp về hôn nhân và gia đình mang tính tộc người và khu vực, phong tục, tập quán giúp các cơ quan và những người tiến hành tố tụng hoạt động có hiệu quả trong công tác điều tra, xác minh chứng cứ, hoà giải, xét xử, thi hành án... Từ đó, giúp cơ quan xét xử xác định rõ bản chất của mối quan hệ có tranh chấp, áp dụng pháp luật phù hợp với mối quan hệ có tranh chấp, trong trường hợp cần áp dụng phong tục, tập quán thì xác định áp dụng tập quán nào là phù hợp nhất đam bảo không trái với các nguyên tắc Luật định. Cũng qua phong tuc, tập quán người thẩm phán có thể hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng của các đương sự và giảiq uyết thấu tình đạt lý, đựoc sự đồngý của cộng đồng dân cư nơi xảy ra tranh chấp nói riêng và của xã hội nói chung.

2. Một số nguyên tắc, điều kiện trong áp dụng tập quán về hôn nhân và gia đình.

Một mục đích cơ bản của việc áp dụng phong tục, tập quán về hôn nhân và gia đình là nhằm tôn trọng và phát huy bản sắc dân tộc, truyền thống văn hoá, tâm lý, nguyện vọng của người dân. Từ đó, việc giải quyết các tranh chấp về hôn nhân và gia đình sẽ có nhiều thuận lợi đặc biệt trong việc khuyến khích các đương sự tự giác thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, hạn chế sự mất đoàn kết trong cộng đồng nói chung và trong gia đình nói riêng. Đẻ thực hiện tốt mục đích trên, theo chúng tôi việc áp dụng phong tục, tập quán trong giải quyết các tranh chấp về hôn nhân và gia đình cần đảm bảo các nguyên tắc, điều kiện sau:

Thứ nhất, phong tục, tập quán được áp dụng có nội dung không trái với các nguyên tắc cơ bản của Luật hôn nhân và gia đình.

Về nguyên tắc, Nhà nước và xã hội chỉ tôn trọng và phát huy các phong tục, tập quán tốt đẹp về hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, "Tính chất tốt đẹp" của phong tục, tập quán là một giá trị trừu tượng, nội dung của giá trị này thay đổi theo từng giai đoạn phát triển của xã hội, đồng thời cũng phụ thuộc vào quan niệm của từng cá nhân, gia đình, cộng đồng, tầng lớp xã hội và giai cấp. Vì vậy, nó có thể được xác định đánh giá theo nhiều góc độ, nhiều quan niệm khác nhau. (Trên thực tế, trong quá trình soạn thảo Luật HN-GĐ năm 2000, đã có không ít những ý kiến lo ngại về những khó khăn trong kế thừa, phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp, đặc biệt trong áp dụng phong tục, tập quán về hôn nhân và gia đình, bởi vì: rất khó xác định phong tục, tập quán nào là tốt đẹp cần được kế thừa và phát huy; phong tục, tập quán nào cần được xoá bỏ, do đó, có thể tạo kẽ hở cho những tập tục lạc hậu tồn tại, hoặc gây ra sự lạm dụng tập quán nhiều hơn là áp dụng qui phạm pháp luật, gây khó khăn trong việc đưa Luật HN-GĐ vào đời sống xã hội....)(3).

Tuy nhiên, ở góc độ chung nhất, tính chất tốt đẹp của phong tục, tập quán chịu sự qui định bởi bản chất của chế độ xã hội. Bản chất của chế độ xã hội phản ánh vào các quan hệ hôn nhân và gia đình thông qua các nguyên tắc cơ bản về xây dựng và củng cố chế độ hôn nhân và gia đình. Do đó, nhà nước thường lấy các nguyên tắc cơ bản của Luật làm tiêu chí xác định giá trị và chuẩn mực đạo đức của truyền thống, phong tục, tập quán trong gia đình. Xác định dựa trên căn cứ như vậy, sẽ giúp nhà làm luật, giải thích pháp luật và áp dụng pháp luật giải quyết được các vấn đề sau:

- Việc áp dụng phong tục, tập quán không làm mất đi mà ngược lại góp phần phát huy bản chất của chế độ hôn nhân và gia đình mới;

- Loại bỏ được sự tuỳ tiện và tạo sự thống nhất trong đánh giá và áp dụng truyền thống, phong tục, tập quán về hôn nhân và gia đình;

- Tìm ra và loại bỏ được những truyền thống, phong tục, tập quán lạc hậu không còn phù hợp với chế độ hôn nhân và gia đình mới.

Như vậy, Toà án chỉ áp dụng những phong tục, tập quán có bản chất phù hợp với các nguyên tắc cơ bản sau:

- Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng. Ví dụ, theo tập quán của người Mường, Thái, Thổ ở tỉnh Thanh Hoá thì khi vợ chồng mâu thuẫn với nhau vai trò của đại diện hai họ lúc cưới xin rất quan trọng trong việc hoà giải. Nếu hai vợ chồng có ý định ly hôn thì những người đại diện cho họ vợ và họ chồng tìm mọi cách phân tích, hoà giải để hai vợ chồng đoàn tụ với nhau(4). Đây là tập quán rất tốt cần được vận dụng cho các án kiện ly hôn của những đôi vợ chồng thuộc các tộc người này;

- Tôn trọng và bảo vệ quan hệ hôn nhân giữa các công dân Việt nam khác nhau dân tộc và tôn giáo; giữa công dân Việt nam với người nước ngoài. Ví dụ: tập quán xâm canh giữa người dân ở biên giới hai nước dẫn đến tình trạng hôn nhân giữa những người cùng dân tộc hoặc khác dân tộc nhưng mang quốc tịch hai nước khác nhau mang tính chất phổ biến mà không theo những thủ tục và điều kiện áp dụng cho hôn nhân có yếu tố nước ngoài. Đây là tập quán mang ưu điểm cơ bản là củng cố và phát triển quan hệ và tình đoàn kết giữa cư dân hai nước láng giềng. Do đó, cần được tôn trọng và có những qui định và đường lối giải quyết phù hợp với tính đặc thù của quan hệ cả trong việc thưà nhận và giải quyết các tranh chấp phát sinh;

- Vợ chồng có nghĩa vụ thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình. Đồng bào các dân tộc ít người thường có tâm lý trọng nam khinh nữ dẫn đến sinh đẻ nhiều vi phạm qui định về kế hoạch hoá gia đình, nhiều dân tộc coi có nhiều con, đặc biệt nhiều con trai phản ánh sự thịnh vượng của gia đình. Đây là tập quán không nên khuyên khích và phát huy;

- Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dạy con thành công dân có ích cho xã hội; con có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, nuôi dưỡng ông bà; các thành viên trong gia đình có nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau;

- Không biệt đối xử giữa các con trong gia đình. Trên thực tế, hầu hết các ở các dân tộc ít người đều có sự phân biệt đối xử giữa con trai và con gái. Nhiều dân tộc (Tày, Nùng, Thái ở Lào Cai...) cho con trai được hưởng gia tài, con trai trưởng đựoc tôn trọng ngang với người cha(5). Tập quán này Toà án cần phê phán, không áp dụng trong việc giải quyết các tranh chấp, đặc biệt các tranh chấp liên quan đến tài sản trong gia đình;

- Bảo vệ phụ nữ và trẻ em. Nhìn chung, địa vị của người phụ nữ và trẻ em ở các dân tộc ít người hiện nay đã được cải thiện nhưng còn rất thấp kém, chế độ phụ quyền là phổ biến (trừ một số dân tộc ở Tây nguyên vẫn duy trì chế đậo mẫu hệ), hầu hết các các quyền lợi về nhân thân và tài sản do người đàn ông đựoc hưởng. Tập quán này rất lạc hậu không áp dụng để giải quyết các tranh chấp, đặc biệt trong việc giải quyết các tranh chấp về tảo hôn, đa thê, quyền sở hữu trong gia đình...;

Hai là, Chỉ áp dụng những phong tục, tập quán đã trở thành thông dụng, được đông đảo mọi người sinh sống trên cùng địa bàn, cùng dân tộc, cùng tôn giáo thừa nhận.

Cũng với sự phát triển đa dạng và phức tạp của các quan hệ xã hội, phong tục, tập quán cũng có thể mất đi hoặc phát sinh mới trong một cộng đồng, một địa phương. Thậm chí, cùng một phong tục tập quán ở một dân tộc, tôn giáo, khu vực lại tồn tại ở nhiều cấp độ khác nhau. Có phong tục, tập quán chỉ áp dụng cho một dòng họ, một gia đình hoặc một nhóm gia đình (Vi dụ: tập quán ở rể của người Thái cư trú ở một số tỉnh là 3 năm, nhưng một dòng họ hoặc một gia đình lại có tập quán ở rể là 5 năm...). Trong sự trộn lẫn giữa các hình thái phong tục, tập quán, Toà án cần xác định những phong tục, tập quán nào được đông đảo mọi người trong cộng đồng và khu vực thừa nhận; những phong tục, tập quán nào không có tính phổ biến, it người thừa nhận. Về nguyên tắc, Toà án Toà án chỉ áp dụng những phong tục, tập quán đại diện tính truyền thống, bản sắc văn hoá, thói quen xử sự của một cộng đồng hoặc một khu vực.

Ba là, phong tục, tập quán chỉ được áp dụng trên địa bàn có thói quen xử sự theo tập quán đó

Nguyên tắc này xuất phát từ tính cục bộ của phong tục, tập quán, mỗi dân tộc, tôn giáo, khu vực có phong tục, tập quán riêng và chúng chỉ có giá trị điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong nội bộ dân tộc, tôn giáo hoặc giữa các cá nhân cùng sinh sống tại một địa phương. Tính cục bộ của phong tục, tập quán đòi hỏi Toà án không thể áp đặt phong tục, tập quán của dân tộc, tôn giáo, địa phương này vào giải quyết các tranh chấp giữa những người có dân tộc, tôn giáo, địa phương khác (Ví dụ: không thể áp dụng tập quán ở Sơn La để giảiq uyết các tranh chấp ở Hoà Bình hoặc không thể áp dụng tập quán của người H’Mông ở Hà Giang để giải quyết tranh chấp của người Kinh sinh sống ở Hà Giang...). Toà án cũng không thể áp đặt phong tục, tập quán của một bên để giải quyết tranh chấp mà trong đó các bên khác nhau về dân tộc, tôn giáo, địa phương sinh sống và phong tục, tập qúan giữa các dân tộc, tôn giáo, địa phương này mâu thuẫn với nhau về giải quyết tranh chấp (Ví dụ: Chồng là người dân tộc Thái, vợ là dân tộc Kinh khi ly hôn cả hai đều yêu cầu áp dụng tập quán của dân tộc mình để giải quyết tranh chấp). Trong trường hợp có sự xung đột về các tập quán khác nhau mà các bên không thoả thuận được, theo chúng tôi Toà án cần áp dụng phong tục, tập quán nơi xảy ra tranh chấp về tài sản trong gia đình và áp dụng phong tục, tập quán nơi xác lập quan hệ hôn nhân và gia đình để giải quyết các tranh chấp về nhân thân

Bốn là, Tôn trọng sự thoả thuận của đương sự trong việc áp dụng phong tục, tập quán về hôn nhân và gia đình.

Thực hiện nguyên tắc này nhằm đảm bảo tính độc lập, tính tự chủ, tự định đoạt, tự chịu trách nhiệm của các đương sự trong giải quyết các tranh chấp về hôn nhân và gia đình; đồng thời, nó có ý nghĩa xác định tập quán áp dụng. Sự thoả thuận của các đương sự về việc áp dụng phong tục, tập quán cần được đặt ra trong các trường hợp sau:

- Tranh chấp chưa có qui phạm pháp luật hôn nhân và gia đình điều chỉnh;

- Tranh chấp đồng thời có thể được giải quyết trên cơ sở qui phạm pháp luật hoặc phong tục, tập quán;

- Các bên đương sự khác nhau về dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp, địa phương sinh sống dẫn đến có sự khác nhau về phong tục, tập quán (Ví dụ: Chồng người dân tộc kinh quê ở Hưng yên, vợ là người dân tộc H’mông quê ở Lào cai).

Khi thấy có thể áp dụng được phong tục tập quán, thì cần để cho đương sự lựa chọn, thoả thuận việc áp dụng qui phạm pháp luật hay phong tục, tập quán trong giải quyết tranh chấp của mình. Tuyệt đối không được áp đặt, cưỡng ép đương sự, đồng thời cũng không được cấm đoán, ngăn cản đưong sự lựa chọn phong tục, tập quán. Trong trường hợp phải áp dụng phong tục, tập quán (chưa có qui phạm pháp luật điều chỉnh, áp dụng phong tục, tập quán có hiệu quả hơn hoặc xuất phát từ đặc thù của tranh chấp...), cần phải giải thích cho đưong sự rõ nguyên nhân, mục đích của việc vận dụng phong tục, tập quán. có thể mời các đạI diện của cộng đồng như già làng, trưởng bản hoặc chức sắc tôn giáo...) tham gia vào việc thoả thuận áp dụng phong tục, tập quán. Nếu các đương sự không thể thoả thuận được với nhau về áp dụng phong tục, tập quán nào, hoặc những phong tục, tập quán mà đương sự thoả thuận có nội dung trái với các nguyên tắc cơ bản của luật hôn nhân và gia đình, Toà án cần giải quyết tranh chấp bằng qui phạm pháp luật hoặc áp dụng tương tự pháp luật để giải quyết.

Năm là, phát huy vai trò của những người đứng đầu cộng đồng (già làng, trưởng bản) hoặc các chức sắc tôn giáo trong việc áp dụng phong tục, tập quán giải quyết các tranh chấp hôn nhân và gia đình.

Phần lớn các dân tộc ít người đều có những già làng, trưởng bản, đây là những người có uy tín rất cao trong cộng đồng, họ được coi là đạI diện của nhân dân trong các mối quan hệ. Mặt khác, già làng, trưởng bản là những người gìn giữ các phong tục, tập quán của cộng đồng, địa phương mình. Với vai trò lớn như vậy, già làng, trưởng bản là người có khả năng giáo dục, thuyết phục, hoà giải, khuyên bảo đồng bào của họ rất hiệu quả, dung hoà đựoc các tranh chấp, đảm bảo tính đoàn kết của cộng đồng. Trên thực tế, việc giải quyết các tranh chấp có sự tham gia của các già làng, trưởng bản với vai trò hoà giải, xác định tập quán đạt hiệu quả cao hơn rất nhiều so với việc giải quyết tranh chấp không có sự tham gia của những người này.

Tóm lại, về áp dụng phong tục, tập quán trong giải quyết các tranh chấp hôn nhân và gia đình có rất nhiều vấn đề cần tiếp tục trao đổi rộng rãi để có được sự thống nhất quan niệm, giúp cho phong tục, tập quán đựoc sử dụng có hiệu quả với hai tư cách vừa là công cụ bổ sung điều chỉnh một số quan hệ hôn nhân và gia đình vừa là yếu tố góp phần gìn giữ những giá trị truyền thống, chuẩn mực đạo đức của gia đình Việt nam. Theo chúng tôi, trước mắt các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần tiến hành đồng bộ các giải pháp sau:

- Xây dựng một hệ thống qui phạm pháp luật hoàn chỉnh về kế thừa, phát huy truyền thống, phong tục, tập quán trong gia đình. Bao gồm, các qui phạm điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình mang tính tộc người và khu vực; các qui phạm pháp luật qui định danh mục các phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình không đựoc áp dụng và danh mục các phong tục, tập quán tốt đẹp về hôn nhân và gia đình được khuyến khích và phát huy.(11)

- Các cơ quan áp dụng và bảo vệ pháp luật (cơ quan hành chính, toà án, viện kiểm sát...) và Bộ tư pháp cần tiến hành tập huấn chuyên sâu về Luật HN-GĐ nói chung và nhiệm vụ kế thừa, phát huy truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp nói riêng cho thẩm phán, kiểm sát viên, thư ký toà án, hội thẩm nhân dân, hộ tịch viên và nhân viên tư pháp khác. Tránh hiện tượng cực đoan hoặc phủ nhận toàn bộ các giá trị truyền thống trong phong tục, tập quán về hôn nhân và gia đình, hoặc quá lạm dụng phong tục, tập quán về hôn nhân và gia đình làm giảm tính hiệu lực của các qui phạm pháp luật HN-GĐ;

- Tạo sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền với các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức nghề nghiệp, tổ chức tôn giáo... đẩy mạnh công tác phổ biến tuyên truyền và giáo dục pháp luật HN-GĐ trong nhan dân. Qua đó, nâng cao ý thức của nhân dân trong gìn giữ và phát huy các giá trị truyền thống đạo đức tốt đẹp về hôn nhân và gia đình. Đồng thời, giúp nhân dân nhận biết các phong tục tập quán lạc hậu cần được loại bỏ ra khỏi đời sống xã hội và đời sống gia đình%
------------
(1), (2) Xem: Từ điển tiêng việt. Nxb Đà nẵng, năm 1997, tr. 467, 742.
(3) Xem: Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII. Nxb. chính trị quốc gia, năm 1996, tr 112-113.
(4) Xem: Lời nói đầu/ Luật hôn nhân và gia đình năm 2000;
(5) Xem: Từ điển pháp luật (anh-việt). Nxb thế giới, năm 1998, tr 253
(6) Xem; Báo cáo tổng hợp ý kiến nhân dân, các ngành, các cấp về Dự án Luật HN-GĐ sửa đổi của Văn phòng quốc hội ngày 23/3/2000 và Thông tin chuyên đề về Luật HN-GĐ.. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý.Bộ tư pháp, năm 1996, tr8.
(7) Xem: giáo trình Luật hôn nhân và gia đình Việt nam . Đại học Luật Hà nội. Nxb. Công an nhân dân. năm 1998, tr 17.
(8)) Xem: Nguyễn Khắc Viện. Từ điển xã hội học. Nxb thế giới, năm 1994, tr 110, 335, 336.
(9)) Về nội dung xem: Văn hoá gia đình Việt nam, Đề tài KX.06 - 11, chủ nhiệm nhà văn Lê Minh.
(10) Xem: Tội phạm ở Việt nam thực trạng nguyên nhân và giải pháp, Đề tài KX.04.14, Tổng cục CSND. Bộ nội vụ. NXB CAND năm 1994.
(11)Xem: Điều 2 và Điều 6 Luật HN-GĐ năm 2000.
(12).Xem: Mối quan hệ giữa tập tục và pháp luật. Thông tin khoa học pháp lý. Viện nnghiên cứu KHPL. Bộ tư pháp. 10/1999
(13) Xem: Chỉ thị số 15/2000/CT-TTg ngày 09/08/2000 của Thủ tướng Chính phủ về việc tổ chức thực iện Luật HN-GĐ năm 2000.
----------------------------------------
SOURCE: TẠP CHÍ NGHỀ LUẬT - HỌC VIÊN TƯ PHÁP

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét