Thứ Ba, 19 tháng 2, 2008

VỀ QUY ĐỊNH BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO DANH DỰ, NHÂN PHẨM, UY TÍN BỊ XÂM PHẠM TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN

THS. PHẠM KIM ANH - Phó trưởng Khoa Luật Dân sự, ĐH luật TP.HCM

I. Khái niệm danh dự nhân phẩm

Trong đời sống hàng ngày, thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm của công dân; tài sản, danh dự, uy tín của các tổ chức, có thể xảy ra do nhiều tác động khác nhau. Đó có thể là những tác động khách quan song cũng có thể do các hành vi trái pháp luật của cá nhân mang lại. Do đó, Nhà nước ta đã phải sử dụng nhiều biện pháp pháp luật khác nhau để ngăn chặn và khắc phục những hậu quả đó. Điều 609 Bộ luật Dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý mà xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc các chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”. Điều 615 Bộ luật Dân sự có đề cập đến thiệt hại  về danh dự, nhân phẩm, uy tín nhưng không nêu rõ khái niệm thế nào là danh dự, nhân phẩm, uy tín. Điều này có thể dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau trong thực tế. Do đó, cần xác định rõ thế nào là danh dự, nhân phẩm, uy tín và hành vi nào được coi là xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín.

Theo chúng tôi, danh dự là sự đánh giá của xã hội đối với một cá nhân về các mặt đạo đức, phẩm chất chính trị và năng lực của người đó. Sự đánh giá của xã hội có thể về mặt lao động như nói người cần cù, siêng năng hay lười nhác, có thể về mặt tinh thần thái độ đối với công việc được giao, trong sinh hoạt cá nhân hay cư xử với mọi người xung quanh như người đó sống nghiêm túc hay buông thả, trong quan hệ với mọi người thì thân ái đoàn kết hay ích kỷ.

Như vậy, danh dự của một con người được hình thành từ những hành động và cách cư xử của người đó, từ công lao và thành tích mà người đó có được qua những năm tháng của cuộc đời và được xã hội đánh giá theo những tiêu chuẩn và nguyên tắc đạo đức xã hội chủ nghĩa.

Danh dự là một khái niệm rộng gắn liền với một cá nhân hoặc một tổ chức nhất định. Danh dự của một cá nhân bao gồm các yếu tố sau:

- Lòng tự trọng: tức là sự tự đánh giá mình, tự ý thức về giá trị, vị trí của mình trong xã hội (chà đạp lên lòng tự trọng của người khác chính là xúc phạm đến danh dự của người đó).

- Uy tín: chính là giá trị về mặt đạo đức và tài năng được công nhận ở một cá nhân thông qua hoạt động thực tiễn của mình tới mức mà mọi người trong một tổ chức, một dân tộc cảm phục tôn kính và tự nguyện nghe theo. Trong danh dự có uy tín, phá hoại uy tín cũng chính là phá hoại danh dự.

Ngoài ra có thể hiểu danh dự bao gồm cả nhân phẩm. Nhân phẩm là phẩm giá con người, là giá trị tinh thần của một cá nhân với tính cách là một con người. Chà đạp lên nhân phẩm của người khác cũng là xúc phạm đến danh dự người đó.

Danh dự của một tổ chức là sự đánh giá của xã hội và sự tín nhiệm của mọi người đối với hoạt động của tổ chức đó.

Nhưng cần phân biệt mặc dù nhân phẩm cũng là một yếu tố của danh dự, song giữa danh dự và nhân phẩm cũng có những điểm khác nhau nhất định:

Nếu danh dự được hình thành qua nhiều năm tháng của cuộc đời và được xã hội đánh giá theo những tiêu chuẩn và nguyên tắc đạo đức xã hội chủ nghĩa thì nhân phẩm lại có từ khi con người mới sinh ra. Danh dự có thể của một cá nhân hay tổ chức, nhưng nhân phẩm chỉ là một khái niệm được áp dụng đối với cá nhân. Mặc dù danh dự của một con người được hình thành từ những hành vi và cách cư xử, từ công lao và thành tích của người đó có được qua nhiều năm tháng của cuộc đời và được thừa nhận, nhưng mọi người dân đều có quyền được bảo vệ danh dự và nhân phẩm như nhau không phân biệt vào công lao, công tác và những đặc điểm riêng của người có quyền; những người không có năng lực hành vi dân sự, những người mất năng lực hành vi dân sự cũng có quyền bảo vệ danh dự và nhân phẩm như mọi cá nhân khác.

Cũng giống như những quyền dân sự khác, quyền được bảo vệ danh dự và nhân phẩm của cá nhân chấm dứt khi cá nhân đó chết. Tuy nhiên, cũng có trường hợp vì lợi ích của xã hội đòi hỏi phải phục hồi danh dự và nhân phẩm cho một cá nhân mặc dù cá nhân đó đã chết.

Xúc phạm đến danh dự và nhân phẩm thường thể hiện bằng cách: Dùng những lời lẽ hoặc hành động có tính chất thóa mạ khinh bỉ để làm nhục người khác hoặc gán một sự kiện xấu xa cho người khác làm cho xã hội đánh giá sai hoặc hình dung sai về người đó. Sự đánh giá sai sự thật không phụ thuộc vào việc người đưa ra những tin tức đó vô tình hay cố ý.

Tiêu chuẩn để đánh giá những sự việc nêu ra là xấu xa hay không xấu xa là những nguyên tắc đạo đức xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, tính chất nghiêm trọng của những tin tức đưa ra có thể khác nhau tùy theo nhân thân của người bị hại. Ví dụ: Nếu nói một em học sinh quay cóp khi thi mà không đúng sự thật thì cũng là điều đáng chê trách và có thể cũng bị dư luận lên án, nhưng không nghiêm trọng bằng việc nói một nhà văn đã ăn cắp văn của người khác.

II. Quy định của BLDS về bồi thường thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín và hướng hoàn thiện

Với những điều kiện nhất định, những hành vi nói trên có thể cấu thành hai tội hình sự : Tội vu khống và tội làm nhục người khác được qui định tại Điều 116, 117 Bộ luật Hình sự và do đó việc bảo vệ danh dự, nhân phẩm sẽ được thực hiện bằng những biện pháp hình sự . Tuy nhiên biện pháp hình sự chỉ áp dụng được trong trường hợp người thực hiện hai hành vi nói trên có lỗi cố ý tức người đó phải tự mình bịa hoặc loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm hạ thấp danh dự người khác. Người có hành vi lăng nhục thì cố ý dùng những lời lẽ khinh bỉ, thiếu văn hóa hay những hành động có tính chất thóa mạ để làm nhục người khác.

Song vì danh dự và nhân phẩm của cá nhân còn bị tổn thương ngay cả trong trường hợp người loan truyền những sự kiện sai sự thật, xúc phạm đến người khác do sơ suất mà tin rằng nó đúng sự thật. Hậu quả là sự xúc phạm ở đây là làm cho người ta đánh giá sai về một người nào đó, hoặc là hình dung sai về tư cách, đạo đức, năng lực của người đó. Sự hình dung sai hay đánh giá sai này bắt nguồn từ một tin tức sai sự thật không phụ thuộc vào việc người đưa ra những tin tức đó vô tình hay cố ý. Trong những trường hợp đó, danh dự và nhân phẩm của cá nhân, uy tín của một tổ chức vẫn được khôi phục bằng những biện pháp dân sự.

Tuy nhiên cần hiểu rõ việc loan truyền những tin tức sai sự thật này phải thuộc về việc làm, xử sự hay trong một chừng mực nào đó phải có động cơ cá nhân làm cho hành vi ấy trở nên xấu xa thì mới phải cải chính. Còn những đánh giá thông thường thì tuy có thể không đúng về thực chất và là một việc không nên làm xét theo nguyên tắc đạo đức xã hội chủ nghĩa nhưng không phải là những nhận xét tổng hợp gây cho người ta một ấn tượng quá xấu về một người nào đó thì không thể yêu cầu cải chính được. Chẳng hạn người ta có thể nói “Thơ Bút Tre chẳng ra gì”, nhưng không thể nhận xét về một người là thằng đầu trộm đuôi cướp, một thằng tham ô… thì người đó có quyền yêu cầu cải chính và nếu bị thiệt hại thì còn có thể đòi bồi thường.

Quyền được bảo vệ danh dự và nhân phẩm là một quyền có tính cách tổng quát được quy định trong Hiến pháp chứ không chỉ thuần túy là một quyền dân sự, nhưng luật dân sự có nhiệm vụ cùng các ngành luật khác bằng những phương tiện riêng của mình góp phần bảo vệ danh dự, nhân phẩm của cá nhân, danh dự, uy tín của một tổ chức một khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm.

Vì quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín cũng là quyền nhân thân nên biện pháp dân sự được dùng để bảo vệ cũng được áp dụng theo Điều 27 Bộ luật Dân sự là:

- Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu tòa án buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai.

- Tự mình cải chính trên các phương tiện thông tin đại chúng.

- Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu tòa án buộc người vi phạm phải bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần.

Điều 615 Bộ luật Dân sự quy định thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm bao gồm:

- Chi phí hợp lý để hạn chế khắc phục thiệt hại.

- Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.

Ngoài ra, tùy từng trường hợp ngoài việc buộc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai, Tòa án quyết định người gây thiệt hại do hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín phải bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị xâm phạm.

Như vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ bao gồm bồi thường thiệt hại về vật chất và bồi thường thiệt hại về tinh thần. Khái niệm thiệt hại vật chất đã được quy định rõ trong khoản 2 Điều 310 Bộ luật Dân sự, nhưng thiệt hại về tinh thần thì chưa được Bộ luật Dân sự quy định cụ thể. Khoản 3 Điều 310 chỉ quy định: “Người gây thiệt hại về tinh thần cho người khác do xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền cho người bị hại”.

Vấn đề đặt ra, thế nào là thiệt hại về tinh thần và căn cứ để ấn định mức bồi thường thiệt hại?

Theo chúng tôi, tinh thần là tổng thể nói chung những ý nghĩ, tình cảm… những hoạt động thuộc về đời sống nội tâm của con người và thiệt hại về tinh thần là thiệt hại gây ra đối với tâm trạng của con người, thể hiện bằng việc con người phải chịu những lo lắng, đau đớn về tinh thần. Ví dụ như: đau đớn do người thân bị mất, băn khoăn lo lắng do uy tín, nhân phẩm, danh dự bị xâm phạm, mặc cảm do bị tàn phế, do bị bôi nhọ, làm nhục, bắt giam khi không có tội… Thậm chí chỉ một xâm phạm nhỏ như gán cho một tên gọi rất xấu hoặc cưỡng ép kết hôn hay “quấy nhiễu” sau khi ly hôn cũng làm cho người ta rất khổ tâm. Đây chính là những đau đớn, dằn vặt của nội tâm mà người ta phải chịu. Sự đau khổ này biểu hiện cũng không giống nhau. Những thiệt hại về tinh thần do bị xâm phạm sức khỏe, tính mạng cũng khác với thiệt hại về tinh thần do bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín.

Vì vậy, để tránh tùy tiện khi xét xử thì ngoài những thiệt hại thực tế tính ra được thành tiền, đối với những thiệt hại về tinh thần do xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín chỉ nên bồi thường có tính chất tượng trưng. Người bị thiệt hại do xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín sau khi đã được người gây thiệt hại xin lỗi, cải chính công khai thì sự thiệt hại về tinh thần trong các trường hợp thông thường có thể coi là đã được khôi phục. Làm việc đó chính là đề cao giá trị của con người, khôi phục con người trở lại vị trí cao cả của nó.

Ngoài ra, do trong Bộ luật Dân sự chỉ xác định thiệt hại danh dự, nhân phẩm, uy tín mà không coi đây là một trường hợp riêng biệt của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Vì vậy chúng tôi đề nghị cần đưa trường hợp này vào mục 3 của Chương V phần thứ ba của Bộ luật Dân sự, trong đó phải có điều luật quy định rõ thế nào là danh dự, nhân phẩm, uy tín và những hành vi nào bị coi là xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín và phải bồi thường.

SOURCE: TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 3/2001

* Tác giả hiện là Truởng Khoa Luật dân sự - Đại học Luật TPHCM

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét