Thứ Tư, 27 tháng 11, 2013

3 sự thật về sinh mổ có thể khiến bạn bàng hoàng


          Mức tử vong của mẹ cao gấp 4 lần, trẻ bị suy hô hấp gấp hai lần rưỡi và việc sinh mổ bị lạm dụng tại Việt Nam cao gấp 4 lần ngưỡng cho phép, so với sinh thường, báo cáo của chuyên gia Mỹ và Việt Nam mới đây. Vì sao?
Mẹ dễ tử vong hơn
        Khả năng tử vong mẹ sinh mổ cao gấp 4 lần sinh thường. Đó chỉ là một trong hàng loạt cảnh báo đến nguy cơ sức khỏe có thể gây ra cho sản phụ và em bé khi chọn phương pháp này để “vượt cạn”, theo PGS.TS.BS Nguyễn Thị Nhung – Chủ tịch hội Phụ sản TP. Hồ Chí Minh.
       Nghiên cứu của bà cho thấy, những nguy cơ tai biến do gây tê mê, do chảy máu, nhiễm trùng, tai biến trong khi phẩu thuật như tổn thương bàng quang, băng huyết, rách thêm vết mổ tử cung, tổn thương đường tiết niệu, thuyên tắc mạch.
      Ngoài ra, sẹo trên cổ tử cung còn có thể bị nứt trong những thai kỳ sau.
      Tai biến khác của mổ lấy thai còn phải kể đến bệnh lạc nội tử cung, dính ruột, tắc ruột, nguy cơ nhau tiền đạo tăng 1,7 lần, nhau cài răng lược làm cho bệnh nhân phải cắt tử cung, nhau bong non, thai ngoài tử cung, đặc biệt là thai đóng ở ngay vết mổ sinh cũ.
       PGS Nguyễn Thị Nhung vừa có tham luận khoa học tại Hội nghị y khoa thường niện Việt Nam lần hai, vào ngày 23.11 vừa qua.
     Theo bà, thời gian nằm viện của mổ lấy thai sẽ dài hơn, tốn kém hơn. Sản phụ chịu đau đớn hơn, sự chăm sóc và cho con bú cũng bị ảnh hưởng hơn sinh thường….

Trẻ sinh mổ yếu hơn trẻ sinh thường
        Trẻ sinh mổ suy giảm khả năng miễn dịch hơn trẻ sinh thường, theo nghiên cứu của Giáo sư Dennis L. Kásper, Đại học Harvard.
        Ông công bố tại hội nghị y khoa thường niên Việt Nam lần thứ nhì này, trẻ sinh thường đi qua đường âm đạo nên phản ứng với những vi sinh vật có lợi theo cách làm cho hệ miễn dịch trẻ tốt hơn.
        Theo đó, những đứa trẻ sinh mổ vì bị vô trùng hóa nên phải mất đến 6 tháng chúng mới có được hệ vi khuẩn đường ruột giống như trẻ sinh thường.
       Do kháng thể yếu nên trẻ sinh mổ dễ mắc bệnh tiêu chảy, dị ứng, hen suyễn,…
        Đối với trẻ mổ lấy thai, việc mổ gây ra những tai biến khác như dao mổ có thể phạm vào thai nhi.
          Hội chứng suy hô hấp cấp (RDS) xảy ra đối với trẻ sinh mổ sớm và cũng xảy ra với ngay cả trẻ sinh mổ đã đủ trưởng thành, gấp 2,6 sinh thường
         Trong khi đó, nhiều đứa trẻ sinh non, và điều này đang tăng, chỉ vì do cha mẹ chúng muốn mổ sinh vào ngày, giờ mà họ tin là “đẹp”.
Việt Nam lạm dụng gấp 4 lần mức an toàn
          Mặc dù mổ lấy thai có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho cả mẹ và con nhưng đáng lo ngại là nó đang được áp dụng phổ biến trên thế giới và cả Việt Nam.
         Theo khuyến cáo của Tố chức Y tế thế giới, tỉ lệ mổ lấy thai tốt nhất là dưới 15%. Trong khí đó tỉ lệ này ở nước ta hiện nay là 40%, gấp 4 lần mức an toàn.
          Nguyên nhân làm cho tỉ lệ mổ lấy thai tăng là do: số người sinh con so tăng, mẹ lớn tuổi mới mang thai, song thai, có vết mổ lấy thai cũ, máy soi tim thai giúp phát hiện sớm các trường hợp suy thai.
          Nhưng điều đáng báo động là động lực thúc đẩy tỉ lệ mổ lấy thai tăng cao không phải vì lý do y khoa.
          Về phía bác sĩ, muốn sinh nhanh để đỡ tốn thời gian theo dõi. Vì một ca sinh mổ chỉ diễn ra trong khoảng 20 – 30 phút, trong khi chờ sinh thường đến 12 giờ.
         Mổ lấy thai giúp bệnh biện tăng thêm viện phí hơn sinh thường. Có lẽ đây là lý do tỉ lệ mổ lấy thai ở bệnh viện tư cao hơn bệnh viện công.
          Trong khi đó sản phụ và người nhà muốn sinh mổ vì sợ đau, muốn giữ sự rắn chắc của tầng sinh môn và nhất là sinh theo lá số tử vi (chọn ngày, giờ tốt).
           Cuộc sống khấm khá, kỹ thuật y khoa phát triển không ngừng dễ đánh lừa sự lựa chọn mổ lấy thai của nhiều sản phụ, nhất là ở các đô thị.
           Tuy nhiên, thực tế cho thấy, dù đã được áp dụng phổ biến trên toàn thế giới nhưng mổ lấy thai vẫn là một phương pháp không an toàn. Do đó, chỉ sinh mổ khi không thể sinh thường được.
           Về phía thầy thuốc, theo qui định của ngành, mổ lấy thai không vì lý do y khoa là vi phạm y đức. Song trên thực tế , vì lợi ích cá nhân một bộ phận bác sĩ vẫn đồng thuận với mổ lấy thai khi không cần thiết. Vì vậy cần đẩy mạnh giáo dục y đức, nâng cao hiệu quả chẩn đoán bằng hội chẩn. Có vậy thì việc kéo giảm tỉ lệ mổ lấy thai xuống con số an toàn là dưới 15% theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới mới sớm thành hiện thực. PGS.TS.BS Nguyễn Thị Nhung kết luận.
                                                                                                            Dư Khanh


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét