Thứ Tư, 30 tháng 4, 2014

Không nên uống nhiều nước khi ăn


        Uống nước trong khi ăn cản trở quá trình tiêu hóa của dạ dày và khiến nồng độ insulin biến động đáng kể, cảnh báo được đăng tải trên trang Healthmeup.

         Uống nước trong bữa ăn không phải là thời gian tốt nhất để làm dịu cơn khát, tiến sĩ - bác sĩ Shonali Sabherwal của Ấn Độ cho biết. Ông giải thích thêm, đối với những người gặp vấn đề về tiêu hóa, dạ dày có sở trường đặc biệt để nhận biết khi nào cần dung nạp thức ăn, từ đó nhanh chóng tiết ra các dịch tiêu hóa. Nếu vừa ăn vừa uống cùng lúc thì bạn đã vô tình làm loãng dịch tiêu hóa tiết ra để tiêu hóa thức ăn, dẫn đến hệ quả làm hỏng các chất dinh dưỡng của thực phẩm.
          Hơn nữa, bác sĩ Sabherwal còn cảnh báo vừa ăn vừa uống rất dễ dẫn đến hiện tượng trào ngược a xít dạ dày và ợ nóng. Không chỉ vậy, uống nước trong bữa ăn còn có thể khiến nồng độ insulin tăng đột biến, nếu như bạn tiêu thụ thực phẩm có chỉ số glycemic cao. Khi insulin tăng cao trong máu, khả năng cơ thể lưu trữ chất béo càng nhiều, từ đó gây ra những hệ lụy đáng tiếc cho sức khỏe.
          Nhiều nghiên cứu cho thấy nhấm nháp một vài ngụm nước trong bữa ăn không ảnh hưởng gì nhiều, nhưng uống một hoặc hai ly có thể ảnh hưởng đến quá trình tiêu hóa. Theo các chuyên gia, thời gian tốt nhất để uống là trước khi ăn hoặc hai giờ sau bữa ăn để các chất dinh dưỡng được hấp thu một cách hiệu quả.

          Bác sĩ Sabherwal gợi ý một số cách để hạn chế nạp nhiều nước trong khi ăn: Hãy chắc chắn thực phẩm không quá mặn để không làm trầm trọng thêm cơn khát và kích hoạt nhu cầu uống nhiều nước. Tránh ăn nhanh bởi ăn hối hả dễ mắc nghẹn và cần uống nhiều nước để đẩy thức ăn xuống dạ dày. Nhai kỹ thức ăn cũng là cách giúp hạn chế việc uống nhiều nước bởi trong khi nhai kỹ, dịch tiêu hóa (enzyme) tiết ra nhiều, tạo điều kiện thuận lợi cho dạ dày hoạt động hiệu quả hơn.


                                                                                    Hạ Yên (saigonamthuc)


Mâu Thuẫn của Liên bang Nga

Vũ Hoàng & Nguyễn Xuân Nghĩa, RFA Ngày 140430
"Diễn đàn Kinh tế"

Chủ nghĩa cộng sản đang hồi sinh tại Liên bang Nga? 
000_Par7866864(1)-600.jpg
* Thanh niên Ukraine vẽ một bản đồ biểu tượng của Ukraine, với màu đỏ tượng trưng cho những vùng đã mất Donetsk, Lugansk và Crimea trước Quốc hội tại Kiev vào ngày 30 Tháng 4 năm 2014 - AFP photo



Sau khi lãnh đạo Liên bang Nga thôn tính bán đảo Crimea và uy hiếp xứ Ukraine, thế giới đang chứng kiến một sự kiện mới lạ mà đáng ngại. Đó là một số đông đảo người Nga lại ủng hộ việc chinh phục hay sát nhập đó và thậm chí còn muốn khôi phục lại chủ nghĩa cộng sản. Diễn đàn Kinh tế tìm hiểu câu giải đáp cho hiện tượng có vẻ như ngược chiều này. Xin quý thính giả theo dõi phần giải thích của chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa sau đây.

Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nguyễn-Xuân Nghĩa. Thưa ông, Liên bang Xô viết chính thức sụp đổ từ năm 1991 nên nhân loại tưởng là ý thức hệ cộng sản coi như cáo chung sau 74 năm thử nghiệm tại nước Nga. Nhưng ngày nay, dường như chủ nghĩa cộng sản lại hồi sinh tại Liên bang Nga sau khi lãnh đạo xứ này thôn tính bán đảo Crimea và dùng võ lực uy hiếp xứ Ukraine. Nhiều người Nga tỏ vẻ ủng hộ việc sát nhập như một biểu hiện của chủ nghĩa ái quốc lồng trong những lý luận và khẩu hiệu có mùi cộng sản, trong khi thành phần bất đồng ý kiến thì lặng thinh để khỏi bị chế độ trù dập. Thưa ông, vì sao lại có hiện tượng mà ta có thể gọi là đi ngược trào lưu của nhân loại như vậy?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi thiển nghĩ là Liên bang Nga đang gặp mâu thuẫn nặng khi lãnh đạo muốn khôi phục lại chức năng huy động của ý thức hệ cộng sản mặc dù họ ý thức được những giới hạn của ý thức hệ này. Muốn hiểu tại sao thì có lẽ ta phải đi lại từ nguyên thủy, từ hoàn cảnh khá bất thường của nước Nga.


Sau nhiều thế kỷ đã sống với độc tài, họ có một khái niệm khác thiên hạ về tự do hay dân chủ theo kiểu phổ thông ngày nay, xuất phát từ Âu Châu. Nguyễn-Xuân Nghĩa

Vũ Hoàng: Chúng ta sẽ đi lại từ hoàn cảnh đó. Thưa ông, nó bất thường ở chỗ nào?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Liên bang Nga có lãnh thổ rộng lớn nhất trong các nước trên thế giới, với diện tích là hơn 17 triệu cây số vuông, dù có khá nhiều tài nguyên thiên nhiên thật ra vẫn là một nước nghèo. Từ một Đại Công Quốc tại khu vực có thể gọi là "Trung Nguyên" Muscovy, sau khi bành trướng và hình thành như một đế quốc vào thế kỷ 16, nước Nga chưa giải quyết được bài toán kinh tế của họ. Bài toán ấy xuất phát từ địa dư hình thể.

- Trước hết, nước Nga có lãnh thổ trống trải, với nhiều vùng đất hoang vu khó sống nếu không có công trình đầu tư cực kỳ tốn kém. Thí dụ ai cũng biết là vùng Siberia, trải rộng từ rặng núi Ural qua tới Thái Bình Dương, từ vùng Cực Bắc xuống tới Trung Á, và chiếm đến hơn ba phần tư diện tích đất đai mà vẫn là một khu vực khiếm khai, chậm tiến và chưa khai thác hết.

- Lãnh thổ Nga nằm trên vùng đất lạnh, thời gian có thể canh tác trong một năm thật ra rất ngắn. Có lương thực rồi, họ còn phải chuyên chở đến nơi tiêu thụ qua những vùng cách trở bát ngát lại thiếu sông ngòi thuận tiện cho vận tải. Nước Nga cũng thiếu ngả thông thương ra biển ấm để tận dụng phương tiện hàng hải, là cách chuyên chở có giá trị kinh tế cao nhất vì tương đối rẻ nhất. Yếu tố thứ tư là sự phân bố dân số trên một diện tích hiểm trở và thiếu liền lạc, đa số tập trung tại miền Tây, nên cư dân ở khu vực nào có lương thực thường cố giữ lấy tài sản đó cho mình. Vì địa dư hình thể bất lợi ấy, việc giải quyết miếng ăn như bài toán kinh tế sơ đẳng đã là vấn đề sinh tử mà nhiều xứ khác không gặp. Bây giờ ta mới châm thêm yếu tố an ninh.

Vũ Hoàng: Thính giả của chúng ta mường tượng ra cách giải thích của ông từ điều kiện thiên nhiên mà nhiều quốc gia rộng lớn khác lại không gặp, như trường hợp Canada, Trung Quốc, Hoa Kỳ hay xứ Brazil hoặc Australia mà ta hay gọi là nước Úc. Thế yếu tố an ninh đó là gì?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Lãnh thổ của nước Nga rất trống trải và khó phòng vệ trước nhiều đợt tấn công của ngoại bang. Trong lịch sử thì quân Mông Cổ từ hướng Đông Nam vượt thảo nguyên Trung Á, hay từ các nước Bắc Âu và Tây Âu qua các Bình nguyên Bắc Âu Châu vào Moscow. Vì vậy, sau năm thế kỷ bị đủ loại ngoại xâm, bản năng phòng thủ mới là thuộc tính của lãnh đạo Nga. Họ phòng thủ theo lối tích cực là vừa bảo vệ hậu cứ là khu vực Muscovy nguyên thủy vừa chinh phục các vùng đất có thể là hành lang xâm nhập vào lãnh thổ ở trung ương.

- Các Đại đế của Nga, cho tới Joseph Stalin trong thế kỷ 20, đều là những nhà chinh phục, theo hướng bành trướng xuống miền Nam qua vùng Caucasus và Đông Nam qua các thảo nguyên Trung Á, rồi miền Tây và Tây Bắc vào mãi tận Âu Châu. Họ bành trướng vào các khu vực này để xây dựng thành vùng trái độn quân sự trong mục tiêu an ninh mà tôi xin gọi là "phòng thủ tích cực". Khi ấy, nước Nga lại gặp một mâu thuẫn khác.

Vũ Hoàng: Thưa ông, mâu thuẫn đó là gì?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Khi bành trướng và sát nhập xứ khác, câu hỏi nêu ra là lãnh đạo Nga làm gì với cư dân bản địa?

- Người dân trong các vùng bị áp đặt làm trái độn lại thuộc các sắc tộc, văn hóa và tôn giáo khác. Họ không dễ gì chấp nhận trở thành công dân hạng hai dưới sự cai trị của người Nga, da trắng, theo Chính thống giáo và coi Moscow là trung tâm quyền lực. Họ càng khó chấp nhận nếu tài nguyên hạ đẳng là lương thực lại bị trưng thu để chở đi nuôi người dân ở nơi khác.

- Vì vậy, nhu cầu an ninh của nước Nga mới dẫn tới một mâu thuẫn là càng thôn tính thì càng nuốt vào bụng - chữ "thôn" này có nghĩa là "nuốt" - những yếu tố bất ổn. Muốn bảo vệ vùng trái độn theo kiểu tự vệ tích cực như thế, Chính quyền trung ương phải có ba điều kiện tốn kém là thứ nhất đồn trú quân đội, thứ hai có bộ máy nội an tỏa rộng và thứ ba là có hệ thống tình báo tràn ngập mọi nơi. Khi đối chiếu sự tốn kém ấy với bài toán kinh tế sơ đẳng mình nói hồi nãy thì ta thấy ra vấn đề. Giải pháp của lãnh đạo Nga vì vậy là chế độ độc tài.

- Và người dân Nga chấp nhận cái ách độc tài ấy như một điều kiện cần thiết để tồn tại. Sau nhiều thế kỷ đã sống với độc tài, họ có một khái niệm khác thiên hạ về tự do hay dân chủ theo kiểu phổ thông ngày nay, xuất phát từ Âu Châu.

 

Chủ nghĩa cộng sản hồi sinh?  

000_Par7866886-250.jpg
Cảnh sát và một người dân bên ngoài ga đường sắt Kiev bị đóng cửa vì lý do an ninh hôm 30/4/2014. AFP photo


Vũ Hoàng: Ông nêu ra một ý kiến có vẻ nghịch lý là người Nga chấp nhận mãi rồi sống với ách độc tài mà coi như điều tự nhiên. Phải chăng vì thế mà quốc gia đầu tiên đã áp dụng chủ nghĩa cộng sản độc tài chính là nước Nga?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Mặc dù Karl Marx giải thích và tiên đoán linh tinh về cách mạng vô sản, cuộc cách mạng đó không xuất hiện tại Anh hay Đức là hai nước công nghiệp hoá hay tư bản tiên tiến mà xuất hiện tại Nga chính là nhờ Lenin. Không có Lenin trong kỹ thuật tổ chức việc cướp chính quyền rồi Stalin trong kỹ thuật cai trị theo ý thức hệ cộng sản thì Marx chỉ là một nhà tư tưởng viễn mơ và hoang tưởng đã bị lãng quên. Ý thức hệ cộng sản được tận dụng tại Nga vì gặp mảnh đất phì nhiêu sẵn có của tinh thần chuyên chế. Rồi từ đó, những người Bôn Sơ Vích mới tìm cách hợp lý hóa ý thức hệ và dựng thành một hệ thống tư tưởng có vẻ hoàn chỉnh như hoàn toàn là của Nga trong thời Xô viết.

Vũ Hoàng: Ông dùng một chữ là "có vẻ hoàn chỉnh" phải chăng với hàm ý rằng đấy chỉ là hình thức bên ngoài mà thôi?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Nhân câu hỏi của ông, tôi xin được nhắc tới một cuộc tranh luận mà các thính giả còn trẻ của chúng ta đôi khi không biết và người lớn tuổi hơn thì đã quên.

- Hơn bốn chục năm trước, nước Nga có hai nhà bất đồng chính kiến và đấu tranh cho dân chủ nổi tiếng nhất. Đó là nhà vật lý Andrei Sakharov trong lĩnh vực khoa học và văn hào Alexandr Solzhenitsyn trong lĩnh vực nhân văn. Dù cùng đấu tranh, họ lại có cái nhìn hơi khác về ý thức hệ mà ngày nay ta nên nhắc lại thì hiểu ra động thái của ông Vladimir Putin.

- Nhà bác học Sakharov cho rằng ý thức hệ cộng sản chỉ là sự dối trá chẳng đáng tin, tức là một hệ tư tưởng vô giá trị cho sự tiến hóa của xã hội. Với Sakharov, Stalin gây ra nhiều tội ác vì bản chất bạo chúa độc tài chứ không vì tuân thủ ý thức hệ cộng sản, là một tập hợp của những lý luận ngụy biện thiếu khoa học. Ngược lại, nhà văn Solzhenitsyn lại kết án ý thức hệ cộng sản là nô lệ hóa con người và là điều bất lợi cho dân tộc Nga. Lý do là dù chẳng ai tin tư tưởng này thì ai ai cũng cứ làm như người tin thật, cho nên thực tế thì vẫn bị ý thức hệ đó chi phối trong một xã hội mà sự dối trá trở thành quy luật của đời sống. Sau khi Liên Xô tan rã thì thì ta thấy rằng trong cách suy nghĩ tương phản của họ, cả hai nhân vật đó đều có lý.

Vũ Hoàng: Ông giải thích thế nào về hiện tượng hai lý luận trái ngược mà đều có lý?

Chế độ dân chủ vẫn có hy vọng giải quyết khá nhất các bài toán của một quốc gia, kể cả bài toán an ninh. Ngược lại, người ta không thể cai trị đất nước bằng sự dối trá, dù là nhân danh một giai cấp hay một dân tộc. Nguyễn-Xuân Nghĩa

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Chủ nghĩa cộng sản phá sản vì không giải quyết được bài toán kinh tế và phát triển cho nước Nga. Trong khi đó, chế độ Xô viết bị xuất huyết vì muốn kiểm soát một khu vực quá rộng lớn với những giải pháp quá tốn kém và khi gặp phản ứng của các nước khác thì càng lao vào cuộc thi đua võ trang cho tới ngày hụt hơi, kiệt quệ và sụp đổ. Vậy mà trong hơn 70 năm, hệ tư tưởng quái đản ấy vẫn chi phối cách sống, suy nghĩ và hành xử của nhiều người. Cho nên, cái ý thức hệ vô giá trị này như Sakharov kết án thật ra vẫn có chức năng huy động và kiểm soát của nó khiến nước Nga bị lụn bại như Solzhenitsyn đã than phiền.

- Ngày nay, ta đang thấy tái diễn thảm kịch cũ khi ông Putin lại muốn huy động và kiểm soát xã hội theo kiểu cộng sản ngày xưa. Không mấy ai tin rằng hệ thống chính trị của Nga hiện nay là có dân chủ, mà đa số vẫn cứ làm như có thật vì ngoài cái nạn tuyên truyền một chiều lại còn có rủi ro bạo lực của chế độ độc tài. Cũng vậy, nhân danh chủ nghĩa dân tộc của người Nga, đa số vẫn cho rằng sự phát triển của tinh thần dân chủ Tây phương chỉ là âm mưu bành trướng của Âu Châu và Hoa Kỳ. Vì thế, ba tháng biến động chính trị trong nội tình Ukraine được giải thích như hành động cướp chính quyền của một đám phát xít với sự trợ giúp của tình báo Tây phương. Nhiều người Nga nghĩ rằng đấy là mối nguy cho quyền lợi của nước Nga nên trôi dần vào sự dối trá và rốt cuộc thì góp phần củng cố chế độ độc tài. Họ rơi vào cái tôi gọi là "Hiệu ứng Hitler".

Vũ Hoàng: Xin ông giải thích cho thính giả của chúng ta hiệu ứng Hitler đó là gì.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Hitler là lãnh tụ Đức quốc xã đã quá yêu nước Đức mà dựng lên một chế độ phát xít làm nước Đức kiệt quệ và sụp đổ vì bành trướng chiến tranh. Ông Putin cũng là người yêu nước Nga và từ 15 năm nay đang tiến tới một chế độ phát xít mới, với màu sắc và khẩu hiệu cộng sản thì đấy cũng chỉ là tinh thần phát xít. Trong khi đó, các nhược điểm kinh tế của Nga vẫn còn nguyên vẹn và sau vụ xâm chiếm Georgia và Ukraine thì phản ứng của thế giới có thể làm nước Nga hụt hơi như đã từng bị trong quá khứ. Đấy là một mâu thuẫn khác của Nga.

- Kết luận nhỏ nhoi của tôi là dù có nhiều bất toàn, chế độ dân chủ vẫn có hy vọng giải quyết khá nhất các bài toán của một quốc gia, kể cả bài toán an ninh. Ngược lại, người ta không thể cai trị đất nước bằng sự dối trá, dù là nhân danh một giai cấp hay một dân tộc.

Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc trao đổi này.



Thứ Ba, 29 tháng 4, 2014

100 bí quyết để có sức khỏe tốt - số 20

Đừng lo ngại chứng hay quên
          Chứng hay quên gây bực dọc và làm chúng ta khổ sở. Tại sao chúng ta thường hay quên 1 điều gì đó ngay lúc cần phải nhớ nhất? Thường thì ký ức của chúng ta về những việc đã qua vẫn được bộ não lưu lại và không bị mất đi. Tuy nhiên đôi khi chúng ta gặp khó khăn trong việc cố tìm lại ký ức. Não chúng ta được tổ chức để chứa thông tin thành từng mảng nhỏ. Chẳng hạn để nhớ tên 1 người khi tình cờ gặp trên đường đi thì trước tiên, ta phải hồi phục lại ký ức về hình ảnh của người đó. Quá trình này có thể bị gián đoạn bởi các nhân tố khác tác động lên bộ não như sự lo lắng do cố nhớ. Hãy tin vào chính mình và hãy chờ đợi bởi thông tin vẫn ở trong não và nó sẽ trở lại với bạn.

          Bằng cách đo nhịp điện để xem các phần khác nhau của não giao tiếp với nhau như thế nào, các nhà nghiên cứu tại đại học Johns Hopkins đã chứng minh rằng ký ức của chúng ta là 1 phần tách biệt trong bộ não con người, nó đòi hỏi chúng ta phải hồi phục lại các thông tin. Do vậy, nếu bạn chưa nhớ ra 1 điều gì đó không có nghĩa là bạn đã quên nó đi mà có thể là đã có 1 trở ngại nhỏ trong quá trình tìm kiếm lại thông tin.


Sách dịch: The 100 simple secrets of health people

Thứ Hai, 28 tháng 4, 2014

Hiệu Ứng Phồn Vinh... Giả Tạo



Nguyễn-Xuân Nghĩa - Người Việt Ngày 140428
"Kinh Tế Cũng Là Chính Trị"

Tại sao biện pháp kích thích kinh tế lại thiếu công hiệu?

* Cửa nào của em cũng sáng! * 



Sau khi vụ khủng hoảng tài chánh bùng nổ vào Tháng Chín năm 2008 giữa một chu kỳ suy trầm (từ Tháng 12 năm 2007 tới Tháng Bảy 2009), Chính quyền Hoa Kỳ ban hành Đạo luật ARRA, Phục hoạt và Đầu tư (American Recovery and Reinvestment Act) trị giá 787 tỷ Mỹ kim nhằm kích thích kinh tế.

Khi đó, Tháng Năm năm 2009, Hội đồng Cố vấn Kinh tế bên Phủ Tổng thống công bố một dự báo về triển vọng nhân dụng nhằm giảm thiểu mức thất nghiệp. Đúng năm năm sau, tham khảo lại văn kiện này ta thấy dự báo ấy là quá lạc quan. Nhưng chưa thấm gì nếu so với phúc trình do Hội đồng Cố vấn này soạn thảo cho Tổng thống công bố vào Tháng Ba vừa qua. Một tác phẩm tuyệt vời về thành tích không có của biện pháp kích cầu.

Không tin vào giới chính trị trong một năm có bầu cử, ta nên chú ý đến kế hoạch kích thích của một định chế độc lập là Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ (Federal Reserve Board – FRB hay Fed) với biện pháp hạ lãi suất và bơm tiền tới mấy ngàn tỷ (gọi tắt là QE). Được áp dụng liên tục từ năm năm nay, kế hoạch gây tranh cãi còn gay gắt hơn đạo luật ARRA dù Ngân hàng Trung ương Mỹ là định chế ít bị chính trị hóa nhất nhờ tư thế độc lập của mình.

Đầu Tháng Tư vừa qua, lần đầu tiên Fed công bố mô thức được áp dụng từ 1996 để thẩm định thị trường làm cơ sở cho các quyết định về tiền tệ và tín dụng. Ta có thể coi "Mô thức FRB/US" là tấm hải đồ mà các thuyền trưởng đã tham khảo và áp dụng để đưa kinh tế ra khỏi sóng gió. May ra thì mình hiểu tính chất hợp lý của các quyết định có ảnh hưởng đến sinh hoạt kinh tế của Hoa Kỳ, và cả thế giới, vì sức nặng của nền kinh tế này.

Người viết đã tự hành hạ (hí hí) khi đọc các tài liệu nhức đầu ấy, và sẽ hành hạ độc giả (hí hí bis) để nói dài hơn mọi khi về một sự hợp lý quái đản - một nghịch lý. Vì sao kinh tế chưa hồi phục, thất nghiệp còn cao mà người giàu lại còn giàu hơn trong khi giới trung lưu vẫn chật vật, và dân nghèo thì ngóng đợi nguồn trợ cấp của nhà nước, của các chính khách trong hệ thống chính trị?

Lòng vòng rồi vẫn về chuyện cũ: "kinh tế cũng là chính trị!" - với một chấm than....


***

Kinh tế chỉ phát triển khi tài hóa lưu thông. Tài hóa chỉ lưu thông khi người có tài sản chịu chi ra. Họ có mua sắm thì hàng bán mới chạy, hãng xưởng mới tuyển người rồi ai cũng thấy mình giàu hơn nên tiêu xài rộng rãi hơn trong sự hồ hởi chung. Giới kinh tế gọi đó là "hiệu ứng thịnh vượng" – wealth effect.

Từ năm 1987 đến nay, hệ thống Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ đã có ba vị thuyền thưởng là các Thống đốc Alan Greenspan, Ben Bernanke và Janet Yellen. Họ chỉ đạo nhóm "tài công" trong một ủy ban hữu trách về chính sách tín dụng và tiền tệ có tên là FOMC (Federal Open Market Committee) cứ sáu tuần lại họp một lần để quyết định về các biện pháp tài chánh trên thị trường nhằm điều tiết khối tiền tệ theo hai mục tiêu là ổn định vật giá và tạo ra việc làm.

Ủy ban FOMC dùng Mô thức FRB/US để chẩn đoán tình hình và định hướng chính sách theo lý luận là người có tài sản mà đem ra tiêu thụ thì sẽ kích thích kinh tế - làm tài hóa lưu thông.

Người thịnh vượng chủ yếu là có tiền đầu tư vào thị trường chứng phiếu và có nhà cửa được giá. Đầu năm nay, tân Thống đốc Yellen phát biểu không khác gì hai vị tiền nhiệm: "Một phần của việc kích thích kinh tế đến từ giá nhà và giá cổ phiếu cao hơn khiến những ai có hai loại tài sản đó tiêu xài nhiều hơn, họ tạo thêm việc làm và lợi tức cho cả nền kinh tế".

Nôm na thì kinh tế tăng trưởng nhờ ấn tượng về thịnh vượng, có thể gọi đó là hiệu ứng "phồn vinh", một từ quen thuộc sau năm 1975.... Cũng xin nói ngay rằng không phải là mọi người trong số 12 ủy viên của FOMC đều đồng ý với lý luận "kích cầu" đó trong thời gian vừa qua.

Từ lập luận có vẻ hợp lý này, mình nên suy ngẫm thêm một bước. Nếu biện pháp kích thích có thể gia tăng sự thịnh vượng cho người có tài sản thì sức tiêu thụ sau đó sẽ tăng, và thất nghiệp dần dần sẽ giảm. Tìm ra mối liên hệ khoa học giữa đà gia tăng của tài sản và tiêu thụ thì ta có thể quyết định về biện pháp nâng đỡ những người có tài sản để nhờ đó tính ra mức độ nâng đỡ: thêm một đồng – thì thêm được mấy xu tiêu thụ?

Mô thức FRB/US của Ủy ban FOMC có tham vọng tính ra mức liên hệ đó làm căn bản của chính sách bơm tiền. Thí dụ như nếu tài sản tăng giá được trăm đồng thì tiêu thụ sẽ tăng từ năm đến 10 đồng. Dựa trên quy luật đầy vẻ khoa học ấy, Ngân hàng Trung ương Mỹ dự báo là kinh tế Mỹ sẽ tăng trưởng được 6% trong bốn năm qua, năm nay sẽ tăng thêm 2,9%, qua năm tới thì tăng được 3,5%.

Đấy là nguyên ủy của kế hoạch hạ lãi suất và ào ạt bơm ra hơn ba ngàn tỷ Mỹ kim, với kỳ vọng tạo ra số tăng trưởng là một ngàn tỷ Mỹ kim tính đến cuối năm ngoái.

Vậy mà con số ngàn tỷ đó vẫn chưa có.

Hình như các thuyền trưởng đã lạc quan tếu!

Từ nhiều năm nay, một số trung tâm nghiên cứu ảnh hưởng của sự thịnh vượng tới sức tiêu thụ từ năm 1930 tới 2013 đã phủ nhận mối quan hệ lạc quan giữa tài sản và tiêu thụ. Không nhiều đến mức là cứ giàu thêm một đồng là xài năm/mười xu, có khi chỉ ở khoảng 0,04 đến 0,06 thôi. Điều ấy phần nào giải thích vì sao năm qua giá cổ phiếu và địa ốc đã tăng mạnh (chỉ số tiêu biểu là S&P 500 tăng gần 18% và Chỉ số Giá nhà tăng hơn 9%, tổng cộng là tăng gần 27%) mà số tiêu thị chỉ tăng có 1,2%.

Nói theo người Hà Nội năm xưa thì đấy chỉ là sự phồn vinh giả tạo. Mà sai!

Vì Hoa Kỳ có sự phồn vinh thật, nhưng tập trung vào một thiểu số có tài sản đầu tư trong thị trường địa ốc và chứng khoán. Khổ nỗi cái ơn mưa móc ở trên lại không rỏ xuống dưới, nên người ta mới rên về sự bất công trong xã hội. Nguy hơn vậy, sự giàu có tích lũy ở trên lại đang thổi lên bong bóng, y như mà còn lớn hơn những gì đã thấy năm 2007-2008, khi bóng bể....

Tuy nhiên, sự thể vẫn không đơn giản là chính sách kinh tế Mỹ chỉ phục vụ nhà giàu như nhiều người có thể nghĩ. Ta nên nhìn xa hơn Mô thức FRB/US hay sự tính toán của Ngân hàng Trung ương Mỹ về khả năng kích cầu.

Nhìn vào sự thay đổi trong xã hội Mỹ từ năm năm qua.


***

Ngoài số tiền kỷ lục được bơm vào kinh tế, nước Mỹ còn có nhiều kỷ lục khác.

Thí dụ một, Đạo luật Cải tổ Y tế (Obama Care) dày tới 2.400 trang khiến nhiều người đọc không hết mà vẫn biểu quyết theo lời khuyên của Chủ tịch Hạ viện thời đó là Nancy Pelosi: cứ bỏ phiếu đi, rồi sẽ biết! Khi áp dụng thì các điều lệ lên tới hai vạn trang, và còn nhiêu khê hơn bộ luật thuế vụ. Trong doanh trường, chi tiết cần biết cho việc chấp hành có thể là năm vạn trang chưa nói tới giấy mực đổ ra cho cuộc tranh luận.

Gặp hoản cảnh đó, nếu chẳng không đủ giàu để kiếm bạc triệu trên thị trường cổ phiếu, các doanh nghiệp loại nhỏ và vừa, thành phần tạo ra nhiều việc làm nhất, đều ngần ngại bỏ tiền ra mở mang cơ sở và tuyển thêm người.

Cũng trong cái trớn cải tạo sau vụ khủng hoảng tài chánh năm 2008, đạo luật Dodd-Frank cho lãnh vực ngân hàng là mấy ngàn trang điều lệ làm các ngân hàng ở địa phương chỉ có nước đóng cửa và nhường chỗ cho các đại gia "quá lớn nên không thể để sụp". Hệ thống kiểm soát là mạng lưới rất khít cho bầy cá nhỏ và xua các phiêu sinh vật, trương chủ cò con, vào các ngân hàng lớn.

Ngoài ra, còn biết bao luật lệ rắc rối nữa về môi sinh, năng lượng, thuế vụ giáo dục khiến nền kinh tế phải chịu nhiều ẩn phí và thành phần lưng chừng ở giữa bị chết ngộp.

Với lãi suất nằm quá lâu ở số không, giới trung lưu có tiền tiết kiệm đang là phiêu sinh vật. Họ phải trả thuế nhiều hơn để giúp những người còn nghèo hơn mình ở dưới bậc thang xã hội, mà rất ít hy vọng khởi sắc để nâng cao khả năng cung ứng.

Nạn suy trầm kinh tế đã chính thức kết thúc từ Tháng Bảy năm 2009, nhưng tình hình chưa khả quan mà còn đáng lo trong mấy năm tới chính là vì chánh sách kích cầu và chặn cung vừa qua.

Kinh tế học gọi đó là "liều thuốc đổ bệnh"....

Thứ Sáu, 25 tháng 4, 2014

Tác dụng phụ của thuốc giảm đau và kháng viêm




           Những bệnh nhiễm trùng do siêu vi khuẩn gây ra lại có thể được chữa khỏi bằng các loại thuốc giảm đau.

          Các nhà khoa học ở Đại học Wollongong, Úc, phát hiện thấy rằng, các loại thuốc giảm đau aspirin và ibuprofen có tác dụng phụ bất ngờ, ngăn không cho một số loài vi khuẩn sinh sôi nảy nở. 
          Họ đặc biệt chú ý đến các loại thuốc giảm đau chống viêm được chỉ định khi bị viêm khớp và các bệnh về mắt. Đó là các loại thuốc chống viêm non-steroid, trong số đó có aspirin và ibuprofen.
         Những thuộc tính trên của loại thuốc giảm đau và kháng viêm mang lại hy vọng bào chế các loại thuốc kháng sinh mới.
         Đặc biệt, các nhà khoa học đã chứng minh được rằng, các loại thuốc bromfenac, carprofen và vedaprofen đã kìm hãm, không cho vi khuẩn sinh sôi nảy nở. 
         Đồng thời, cơ chế hoạt động của các loại thuốc này khác về cơ bản so với cơ chế của thuốc kháng sinh. Chúng gắn với protein của vi khuẩn, không cho vi khuẩn sinh sôi nảy nở và kết cục là bị tiêu diệt.

                                                                        Vũ Ngọc Trâm (theo Chemistry & Biology)


Putler và Điếu Xì Gà của Hillary


Nguyễn-Xuân Nghĩa - Việt Báo Ngày 140426

Putin có thể là Hitler, nhưng ai sẽ là Churchill?  

Dân Ukraine biểu tình chống "Putler"
















Đúng năm năm sau, Hillary Clinton có dịp bật lại cái nút của mình với Vladimir Putin và nhắc nhở thiên hạ về lịch sử.

Hãy nói về cái nút đã!

Vừa lên nhậm chức vào đầu năm 2009, Tổng thống Barack Obama đã muốn cải thiện quan hệ với Liên bang Nga, khi ấy vẫn do Putin lãnh đạo trong vai trò Thủ tướng, ở đằng sau mà thật ra là trên đầu Tổng thống Dmitry Medvedev, một thuộc hạ thân tín của ông trong hai nhiệm kỳ làm Tổng thống. 

Qua lời phát biểu của Phó Tổng thống Joe Biden, nước Mỹ muốn "bật lại cái nút", mà, như thông lệ, Biden lại nói sai - là "reset".

Số là máy móc điện cơ hay điện tử vẫn có cái nút gọi là "reset" để tắt máy và bật lại một chu trình mới. Việc bật lại thường được nói cho rõ là "reset the button". Quý bà nội trợ có thể mò dưới đáy cái máy xay rác trong bếp thì sẽ thấy một cái nút đỏ như vậy để bấm khi máy bị kẹt. Miễn là nhắc ông chồng rút tay ra khỏi ống thoát rác!

Chuyện quốc gia quốc tế thì trọng đại hơn việc tề gia hoặc xay rác. Chính quyền Obama nghĩ đến việc "bật lại" hay đưa quan hệ Mỹ-Nga qua một chu trình mới.

Nếu muốn tìm hiểu cho kỹ thì có lẽ khái niệm "reset" xuất phát từ sáng kiến của một lò trí tuệ thiên tả năm 2007. Đó là khi trung tâm Center for American Progress gồm toàn nhân vật tham mưu của Bill Clinton rồi Barack Obama đề nghị một đối sách khác của Hoa Kỳ với quốc tế. Họ gọi đó là "strategic reset", để ra khỏi những sai lầm của Chính quyền George W. Bush.

Hoa Kỳ triệt để hòa giải để hòa hợp với thiên hạ và quay về cải tạo xã hội của mình. Sau Obama và Biden, Ngoại trưởng Hillary Clinton mới đưa đối sách vào áp dụng.

Nôm na là bật nút!

Ngày 26 Tháng Hai năm 2009, bà tặng vị tương nhiệm trong Chính quyền Nga là Ngoại trưởng Sergei Lavrov cái hộp có nút đỏ ghi chữ "Reset" bằng Anh ngữ. Bộ Ngoại giao Mỹ vốn thông thái mà có khi thiếu kẻ thông dịch, nên dịch sai chữ "Reset" qua tiếng Nga là "Peregruzka" làm Lavrov cười ngất. Sai vì không có nghĩa là "reset", mà còn lạc vì hàm ý "nóng máy" hay "quá tải". 

Em lộn nút rồi - Đồng chí vứt mẫu thân nó đi!


Một sự sai lạc mang ý nghĩa tiên tri - hay tiền định! Vụ khủng hoảng Ukraine là một chứng nghiệm....

Năm năm sau, đầu Tháng Ba vừa rồi, Hillary có dịp sửa lại cái sai năm xưa về đối sách với Nga khi phát biểu tại California rằng hành động của Putin tại Crimea gợi nhớ tới Hitler. Là người thông minh, và sắc xảo, Hillary đã nghĩ tới tấm lịch bầu cử năm 2016, khi mình có thể ra tranh cử Tổng thống. Và bị vặn nút.

Nhờ vậy, ta hãy tìm lại Hitler, và thấy ra Putin – cùng nhiều bóng ma khác.


***


Hitler là người yêu nước Đức chẳng kém gì Putin yêu nước Nga. Trong cuốn "Mein Kampf", ông viết ra điều ấy, rất mạch lạc dù chưa thi vị bằng Obama trong cuốn "Dreams from My Father". "From" chứ không phải là of My Father, xin bà con để ý cho.... Muốn hiểu vì sao, xin đọc lại bài của người viết trên cột báo này từ tháng Chín năm 2010 với lời giải thích vì sao đấy là một Tổng thống... chống Mỹ.

Trong cuốn Mein Kampf, Hitler viết về cuộc đấu tranh, chứ không phải những giấc mộng của mình, để thống nhất những ai cùng chia sẻ văn hoá và ngôn ngữ Đức trong một đế quốc, một Reich. Việc thống nhất đó nên tiến hành trong hòa bình và qua thương thảo, nhưng nếu cần thì bằng võ lực, chiến tranh và chinh phục.

Trên nước Đức bị tàn phá sau Thế chiến I, Hitler bước lên vị trí lãnh đạo qua bầu cử và tìm cách hủy bỏ những áp đặt bất lợi của phe Đồng minh trong Hoà ước Versailles khi Đức bị khuất phục vào năm 1918. Bước đầu tiên là đưa quân vào vùng phi quân sự Rhineland. Và để lại đó khi các nước Anh Pháp trong phe Đồng minh vẫn nín thinh. Quân sự hóa một vùng phi quân sự là hành động đáng ngại, mà chưa ai thấy là đáng lo.

Bước kế tiếp là Hitler cho quân tiến vào vùng Anschluss của một nước nói tiếng Đức, là nước Áo. Từng là thần dân của một Đế quốc bị gẫy càng, dân Áo hoan hỉ làm công dân của Đế quốc Đức trong khi phe Đồng minh vẫn nín lặng. Trưởc vẻ nhu mềm đó, Hitler bèn tiến tới.

Lãnh thổ Tiệp Khắc Czechoslovakia có deo đất Sudetenland là nơi ngụ cư bất đắc dĩ của dân nói tiếng Đức. Hitler đưa quân vào "bênh vực" những người yếu thế này, và đạt thỏa thuận với phe Đồng Minh tại Thượng đỉnh Muchen năm 1938. Đại diện cho phe Đồng Minh trong việc thương thuyết là Thủ tướng Neville Chamberlain của Anh. Ông ta biện bạch rằng Hitler chỉ muốn bảo vệ người Đức trên đất Sudenten mà thôi.

Huề cả làng. Được vài tháng.

Đầu năm 1939, xứ Tiệp Khắc mất đất Sudentenland thì hết đường chống cự trước sức ép của Hitler. Không mất một viên đạn, Hitler đã mở rộng lãnh thổ để cứu dân Đức. Lúc ấy phe Đồng minh mới tá hoả và Ba Lan tuyệt vọng. Các nước lật đật ký kết một hiệp ước phòng thủ với Ba Lan. Nhưng Putin, à quên Hitler, vẫn có lý do rất chính đáng.

Đó là nhu cầu bảo vệ dân Đức tại Ba Lan, trước tiên là trong hải cảng Danzig sau này nổi danh với nhân vật Lech Walesa. Tháng Chín năm 1939, Hitler đưa quân vào Ba Lan, phe Đồng minh hết đất lùi và đành nổ súng.
Thế chiến II bắt đầu, và máu đổ thịt rơi tới mức kỷ lục, nếu ta bỏ qua những kỷ lục tự biên tự diễn của Stalin và Mao Trạch Đông....

Khi nhớ lại, nếu các nước sớm có phản ứng từ đầu, từ việc quân sự hóa vùng Rhineland, có lẽ Hitler chưa hít đã lật. Và thế giới có thể tránh được Thế chiến II. Nhưng khi đó, lý luận dũng cảm như vậy vẫn là thiểu số. Winston Churchill cô đơn, mang tiếng chủ chiến. Còn lại là một bầy cừu....

Bây giờ đến chuyện tái sinh.


***


Là một sĩ quan mật vụ Liên Xô, Vladimir Putin chứng kiến sự tan rã rồi sụp đổ của Liên bang Xô viết trong quãng thời gian từ 1989 đến 1991. Với ông thì đấy là tai họa có tầm quan trọng nhất của Thế kỷ 20, như ông đã phát biểu năm 2005. Lên lãnh đạo Liên bang Nga từ năm 2000, ông tiếp nhận di sản Xô viết là 1) bộ máy chiến tranh với kho võ khí hạch tâm rất lớn và 2) hệ thống năng lượng dầu khí của một lãnh thổ bát ngát.

Ông sử dụng hai di sản này để thu hồi lại ảnh hưởng đã mất của Đế quốc Xô viết, trước hết là tại vùng biên vực mà thiên hạ gọi là Đông Âu. Tiện thay, các quốc gia nhỏ yếu hơn trong vùng biên vực đều không có võ khí hạch tâm.

Riêng Ukraine thì đã trả lại võ khí chiến lược ấy để đổi lấy lời cam kết là Nga tôn trọng quyền độc lập của mình. Qua Hiệp ước Budapest năm 1994, lời cam kết của Nga được sự ủng hộ và bảo trợ của các nước Tây phương, hậu thân của "phe Đồng minh" ngày xưa. Đứng đầu vẫn là Anh, Pháp.

Chuyện thứ hai, tại vùng biên vực này và còn xa hơn về hướng Tây, các nước đều cần tới năng lượng của Nga. Putin lại khéo mời chào với giá tương đối rẻ, tội gì mà sản xuất lấy hoặc mua ở nơi khác? Liên bang Nga trở thành nhà cung cấp số một, với những đề nghị sặc mùi Bố Già Vito Corleone - "khó từ chối được".

Nhưng, vì quên bẵng Hitler và lý luận Mein Kampf, các nước Tây phương không mấy chú ý đến một di sản thứ ba của Liên Xô thời xưa. Đó là sự hiện diện của kiều dân Nga, hay nhiều cộng đồng "Nga thoại", nói tiếng Nga hoặc thấm nhuần văn hóa Nga. Sau khi các nước Đông Âu được "giải phóng" và đi theo chế độ dân chủ, thành phần dân số Nga thoại xưa kia tự coi là siêu hạng trong hệ thống Nga Xô lại thấy tụt dốc thành công dân hạng hai, là dân thiểu số có màu sắc Nga la tư.

Là người yêu nước Nga, Putin khai thác tâm lý đó trong cộng đồng Nga, trước tiên là tại các nước tiếp cận với lãnh thổ Nga. Đó là ba nước Cộng hoà Baltic (Estonia, Latvia và Lithuania), rồi Georgia, Ukraine và Moldovia. Sau đấy sẽ là Ba Lan và các quốc gia còn lại.

Tại Đông Âu, dân thiểu số gốc Nga không bị bạc đãi, nhưng nhiều người luyến tiếc cái thời vàng son mà họ có thể hét ra lửa dưới lá cờ Xô viết. Họ coi Putin là cứu tinh. Ngôi sao vàng rực rỡ....

Vì vậy, việc Putin thôn tính Crimea bằng ba lợi thế là sức mạnh quân sự, võ khí năng lượng và thiểu số Nga thoại, chỉ là bước nối tiếp những gì đã làm vào năm 2008 tại hai khu vực tự trị của Georgia là Abkhazia và Nam Ossetia. Để sẽ tiếp tục ở nơi khác.

Khi cơ sự bùng nổ tại Ukraine và bóng dáng Hitler xuất hiện đằng sau Putin, dân Ukraine đã tặng hỗn danh "Putler" và bộ ria rất hài cho tân Đại đế.

Nhưng các nước Tây phương lại gặp toàn những Neville Chamberlain tái sinh. Ban tam ca Pháp Anh Đức đồng ca bản "hiếu hòa". Từ Tổng thống Pháp François Hollande tới Thủ tướng Anh David Cameron và Thủ tướng Đức Angela Merkel đều tuyên bố ngay từ đầu là sẽ không dùng võ lực để bảo vệ Ukraine. Và nếu có phải trừng phạt Putin về kinh tế thì cũng đừng nên gây thiệt hại cho mình! Làm sao dung hòa hai nhu cầu trái ngược đó?

Vì vậy, với Putler, lời hăm của Âu Châu không đáng sợ.

Khốn thay, đằng sau ba nước đồng minh, Hoa Kỳ là thế lực duy nhất khả dĩ ngăn được Putin lại do Obama lãnh đạo. Ngoài thuật hùng biện có thể "đẩy sóng ra khơi, nối chân trời gần lại", Obama còn có cái tài là biến những người như Jimmy Carter hay Neville Chamberlain thành... diều hâu!

Không nói chuyện võ mà chỉ dùng văn, Obama vẫn chưa vận động được võ khí năng lượng để hóa giải sức ép của Putin. Dầu khí của Mỹ chưa thể cấp cứu Ukraine hay Âu Châu ra khỏi vòng phong tỏa của Putler. Hay là phải quan niệm lại cái lẽ chiến hòa và mở ra cuộc thi đua võ trang như bọn diều hâu Cộng Hoà?

Đấy là lúc Hillary nghĩ đến cái nút sẽ bật lại khi nhắc mọi người về thành tích của Hitler và nghĩ đến chân trời 2016.

Hãy tưởng tượng đến một Hillary Clinton lẫm liệt trong ngày tranh cử với trang phục của một người hùng Winston Churchill! Nếu có thiếu cái điếu xì gà thì đã có ông nhà cho mượn....

Hài!

Thứ Năm, 24 tháng 4, 2014

Rong biển tốt cho sức khỏe và vẻ đẹp


           Hầu hết các chủng loại rong biển đều được đưa vào ẩm thực các nước, nhất là thực đơn giảm cân. Rong biển nói chung là nguồn protein đặc biệt thiết yếu để bổ sung cho cơ thể, giúp giảm khối mỡ, gìn giữ cơ bắp, da, tóc, móng tay và củng cố sự bền bỉ của cơ thể để chống lại chứng thiếu máu do sắt và các trường hợp viêm nhiễm.
          Rong biển chứa nhiều thành phần như ma giê, can xi, sắt, potassium, kẽm... và các vitamin A, B, C, D1, D2, K, E, F, PP..., diệp lục tố. Rong biển hấp thụ và sử dụng hiệu quả từ ánh nắng mặt trời, chứa một lượng lớn cacbon hydrat, lipid và chất xơ có vai trò đối với quá trình chuyển hóa, sát khuẩn, liền sẹo, hỗ trợ sức khỏe các tuyến nội tiết và làm chậm quá trình lão hóa.
          Theo một nghiên cứu thuộc Đại học Newcastle (Anh) thì nhiều thành phần trong rong biển có thể giúp giảm cân. Đó là do các alginat tác động đến một enzym tiêu hóa mỡ. Chất béo chiếm 40% trong chỉ tiêu cung cấp calo hằng ngày.
         Và khi chúng ta tiêu thụ quá mức thì nó sẽ tích lại trong tế bào mỡ dẫn đến tăng cân. Các nhà nghiên cứu đã chứng minh được alginat có khả năng hấp thu từ 58 - 72% chất béo và ngăn chúng tích tụ vào cơ thể. Cho nên rong biển được đưa vào công nghệ thực phẩm, vừa đủ để chúng tác động đến quá trình giảm cân mà không làm thay đổi hương vị của thức ăn.
        Ngoài ra, rong biển có thể giảm tích nước do tính năng lợi tiểu. Người ta nhận thấy người Nhật có tỷ lệ thừa cân, béo phì thấp hơn các nước khác. Có lẽ do họ có chế độ ăn nhiều rong biển trong nền ẩm thực của mình, như rong biển kombu trong các món canh miso; agar-agar, một loại rong biển đỏ thường được chế biến thành bột rau câu có thể làm no nhanh và kéo dài; rong biển nori để làm sushi hoặc wakamé ăn sống trong các món rau trộn. Ngoài ra, rong biển còn sử dụng để làm đẹp như chữa trị mụn; giảm da nhờn; quấn làm ốm rất hiệu quả.
         Có thể tìm mua rong biển dưới dạng miếng to sấy khô, lá nhỏ tẩm muối, bột rong biển hoặc dưới dạng viên nang bổ sung. Do có hương vị i ốt đặc trưng nên rong biển dễ dàng kết hợp ăn ý với các món từ cá và hải sản khác.

                                                                                    Minh Quân (saigonamthuc)