Chủ Nhật, 16 tháng 12, 2007

Sự điều chính của pháp luật quốc gia đối với tín dụng chứng từ: So sánh Pháp và Việt Nam

Chuyên đề 3

SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT QUỐC GIA ĐỐI VỚI TÍN DỤNG CHỨNG TỪ - So sánh Pháp và Việt Nam

 

Giới thiệu

Bản Quy Tắc và Thực Hành Thống Nhất về tín dụng chứng từ (UCP) không có tính chất áp dụng bắt buộc. Nó chỉ được áp dụng trong quan hệ thư tín dụng khi các bên lựa chọn hay với vai trò là tập quán quốc tế. Tuy nhiên, bản quy tắc này đã bộc lộ nhiều thiếu sót, bất cập, không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn thương mại. Do đó, các chủ thể trong quan hệ tín dụng chứng từ có ý định vận dụng quy định của luật quốc gia trong lĩnh vực này.

Theo giáo sư Legeais, « bên cạnh UCP, việc áp dụng các quy định khác chỉ xảy ra trong ba trường hợp. Thứ nhất, vấn đề cần điều chỉnh không được UCP quy định. Ví dụ như gian lận. Ttrong trường hợp có nhiều bất đồng ý kiến về định nghĩa thế nào là gian lận thì việc xác định luật áp dụng rất quan trọng vì thẩm phán sẽ xem xét hành vi gian lận trên cơ sở luật áp dụng đối với quan hệ thư tín dụng. Thứ hai, thư tín dụng hoàn toàn không chịu sự điều chỉnh của UCP. Thứ ba, các bên loại trừ việc áp dụng một số quy định cụ thể của UCP trong thư tín dụng ».

Một tác giả khác cũng ủng hộ quan điểm của giáo sư Legeais « mặc dù UCP đã quy định khá chi tiết về tín dụng chứng từ, việc dẫn chiếu áp dụng luật quốc gia vẫn rất cần thiết ». Tuy nhiên, việc xác định luật áp dụng trên thực tế gặp nhiều khó khăn do sự phức tạp của các quan hệ pháp lý trong giao dịch thư tín dụng.

Khi các bên không lựa chọn luật điều chỉnh thư tín dụng (Chương I), thẩm phán sẽ áp dụng quy phạm xung đột pháp luật để xác định hệ thống pháp luật phù hợp. Tuy nhiên, thực tế cho thấy thẩm phán mất nhiều thời gian và công sức trong việc xác định luật điều chỉnh. Vì thế, một câu hỏi đặt ra rằng liệu các bên có nên thỏa thuận trong hợp đồng về luật áp dụng để bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích của mình hay không (Chương II).

CHƯƠNG I

SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT QUỐC GIA

ĐỐI VỚI TÍN DỤNG CHỨNG TỪ

KHI CÁC BÊN KHÔNG LỰA CHỌN LUẬT ÁP DỤNG

Trên thực tế, phần lớn các thư tín dụng lưu thông trong thương mại quốc tế đều không có điều khoản dẫn chiếu áp dụng luật quốc gia. Trong trường hợp đó, luật áp dụng sẽ được xác định căn cứ vào quy phạm xung đột pháp luật trong các công ước quốc tế hoặc trong pháp luật quốc gia. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu việc xác định luật điều chỉnh trong theo pháp luật của Pháp và theo pháp luật Việt Nam.

I – Việc xác định luật áp dụng tại Pháp

Tiêu chí.

Thư tín dụng thực chất là một dạng hợp đồng tín dụng. Do đó, chắc chắn thư tín dụng sẽ thuộc phạm vi điều chỉnh của Công ước Rome về luật áp dụng trong lĩnh vực hợp đồng[3]. Khi các bên có liên quan không lựa chọn luật áp dụng theo các quy định của Công ước Rome thì hợp đồng sẽ do pháp luật của nước mà hợp đồng đó có « mối liên hệ mật thiết nhất » điều chỉnh.

Nghĩa vụ đặc thù.

Khi các bên không lựa chọn luật áp dụng thì theo Công ước Rome, hợp đồng sẽ chịu sự điều chỉnh của pháp luật của nước mà hợp đồng đó có mối liên hệ mật thiết nhất (điều 4, khoản 1). Bên cạnh đó, Công ước Rome cũng quy định rằng hợp đồng có mối liên hệ mật thiết nhất với quốc gia mà bên thực hiện nghĩa vụ đặc thù của hợp đồng có nơi cư trú hoặc trụ sở chính (điều 4, khoản 2). Vì thế, theo Công ước Rome, luật áp dụng đối với hợp đồng là luật của nước mà bên thực hiện nghĩa vụ đặc thù của hợp đồng có nơi cư trú hoặc trụ sở chính. Như vậy, phải xác định chủ thể nào thực hiện « nghĩa vụ đặc thù » của hợp đồng. Đối với giao dịch tín dụng chứng từ, để xác định nghĩa vụ đặc thù thì trước tiên phải tìm ra mối quan hệ giữa các bên.

1- Trường hợp có một ngân hàng tham gia quan hệ thư tín dụng

Ngân hàng phát hành và người thụ hưởng.

Theo giáo sư Legeais, « khi chỉ có một ngân hàng tham gia quan hệ thư tín dụng thì sẽ có hai lựa chọn cho luật áp dụng : luật của ngân hàng phát hành và luật của nước nơi thực hiện thư tín dụng. Lựa chọn thứ hai tỏ ra có lợi cho người thụ hưởng và cũng được nhiều chuyên gia trong lĩnh vực tín dụng chứng từ ủng hộ. Tuy nhiên, một số ý kiến khác[4] lại cho rằng nếu áp dụng luật của nước nơi thực hiện thư tín dụng thì điều đó không phù hợp với quy định của điều 4, khoản 2, Công ước Rome. Do đó, áp dụng luật của ngân hàng phát hành hợp lý hơn ». Các thẩm phán Pháp nghiêng về quan điểm này. Bản án của Tòa phúc thẩm Versailles dưới đây là tranh chấp đầu tiên ở Pháp liên quan đến xung đột pháp luật trong giao dịch thư tín dụng dự phòng.

Án lệ.

Trong vụ việc này, Egyptair đã bán cho một công ty Ai-len mười bốn chiếc máy bay. Các bên thỏa thuận giao hàng trong hai năm. Bên cạnh đó, nhà nhập khẩu Ai-len phải ký quỹ một khoản là 15 008 000 USD, tức là 1 072 000 USD đối với mỗi chiếc máy bay. Việc hoàn trả khoản tiền này được đảm bảo trong trường hợp hàng hóa giao không phù hợp thỏa thuận, bởi một thư tín dụng dự phòng do Union des Banques Arabes et Françaises, ở Paris phát hành theo yêu cầu của Egyptair. Trong trường hợp này, mục đích của thư tín dụng nhằm đảm bảo việc hoàn trả khoản tiền ký quỹ trên và người yêu cầu mở thư tín dụng là công ty Egyptair. Các bên thỏa thuận rằng thư tín dụng này do UCP điều chỉnh. Người mua Ai-len có quyền yêu cầu trả vào một tài khoản tại New York, một khoản tiền là 1 072 000 USD đối với mỗi chiếc máy bay, với điều kiện xuất trình một hối phiếu trả ngay và bằng chứng cho thấy rằng Egyptair đã không giao máy bay đúng theo điều kiện của hợp đồng. Nhà nhập khẩu Ai-len khẳng định rằng luật điều chỉnh quan hệ này là luật của bang New York, cụ thể là Bộ luật Thương mại thống nhất (Uniform commercial code), phần V về thư tín dụng. Việc áp dụng luật của bang New York sẽ mang lại lợi ích cho nhà nhập khẩu Ai-len vì điều 5-114 quy định rằng ngân hàng phát hành phải thanh toán thư tín dụng trong trường hợp phát hiện gian lận trong khi đó theo Tòa án Pháp thì có dấu hiệu lạm dụng, lừa dối.

Đối với tranh chấp này, Tòa phúc thẩm Versailles phải giải quyết hai vấn đề. Tuy nhiên, chúng ta chỉ phân tích lập luận của của thẩm phán liên quan đến luật áp dụng đối với tranh chấp có sự tham gia của các công ty có trụ sở tại nhiều quốc gia. Ba lựa chọn được đặt ra : luật của bang New York có thể được áp dụng bởi đó là luật của nước nơi thư tín dụng được thanh toán ; luật của Ai Cập là nơi người yêu cầu mở thư tín dụng có trụ sở (công ty Egyptair) ; luật của Pháp là nơi ngân hàng phát hành có trụ sở. Tuy nhiên, Tòa án nhận định rằng « các bên đã thỏa thuận chọn UCP để điều chỉnh thư tín dụng, do đó phải áp dụng luật của Pháp, là nơi thực hiện nghĩa vụ đặc thù của hợp đồng tín dụng (tức là hành động từ chối hoặc chấp nhận thanh toán của ngân hàng phát hành sau khi kiểm tra chứng từ, không phải là hành động chuyển tiền « thực chất » vào tài khoản). Hơn nữa, Pháp cũng đồng thời là nơi đóng trụ sở của ngân hàng phát hành và là nơi ký kết hợp đồng. Việc áp dụng luật của Mỹ, nơi thanh toán thư tín dụng là không hợp lý vì thư tín dụng được thanh toán bằng đô la Mỹ nên số tiền của thư tín dụng được chuyển vào một tài khoản ở Mỹ »[6]. Các thẩm phán cho rằng Pháp là nước có mối liên hệ mật thiết nhất với giao dịch tín dụng chứng từ. Do đó, luật của Pháp, nơi ngân hàng phát hành có trụ sở, sẽ được áp dụng. Hơn nữa, việc áp dụng luật của Pháp sẽ dẫn đến việc áp dụng một hệ thống pháp luật thống nhất và giúp bảo đảm tính an toàn cho các giao dịch ngân hàng trong lĩnh vực này.

Ngân hàng xác nhận và người thụ hưởng.

Để bảo vệ tốt hơn lợi ích của mình, người thụ hưởng luôn mong muốn một ngân hàng khác xác nhận thư tín dụng. Thông thường ngân hàng thông báo đồng thời là ngân hàng xác nhận. Trong trường hợp đó, ngân hàng này sẽ cam kết thanh toán trực tiếp và độc lập cho người thụ hưởng. Quan hệ giữa ngân hàng xác nhận và người thụ hưởng cũng giống như quan hệ giữa ngân hàng phát hành và người thụ hưởng. Do vậy, việc xác định luật áp dụng sẽ tương tự như quan hệ trên. Trên thực tế, khi ngân hàng xác nhận tham gia vào giao dịch thư tín dụng thì luật điều chỉnh quan hệ giữa ngân hàng và người thụ hưởng sẽ là luật của nước nơi ngân hàng có trụ sở.

Theo một phán quyết của Tòa án liên bang Thụy Sỹ, « cam kết của ngân hàng xác nhận dành cho người thụ hưởng tương tự như cam kết của ngân hàng phát hành. Quan hệ giữa ngân hàng xác nhận và người thụ hưởng sẽ chịu sự điều chỉnh của luật của nước nơi ngân hàng có trụ sở ». Các thẩm phán của Anh cũng tuân theo nguyên tắc này với nhận định rằng « luật áp dụng trong trường hợp có tranh chấp liên quan đến cam kết của ngân hàng xác nhận thư tín dụng quốc tế là luật của nước nơi thư tín dụng được thực hiện ».

Ở Pháp, chúng tôi không tìm thấy án lệ về vấn đề này. Tuy nhiên các học giả của Pháp cũng ủng hộ quan điểm của các thẩm phán Anh và Thụy Sỹ với quan điểm rằng « đối với giao dịch tín dụng chứng từ, quan hệ giữa ngân hàng xác nhận và người thụ hưởng chịu sự điều chỉnh của luật của nước nơi ngân hàng có trụ sở, nếu không có thỏa thuận khác ». Giáo sư Vasseur cho cho rằng « đối với việc xác nhận thư tín dụng, luật áp dụng là luật của nước nơi ngân hàng xác nhận có trụ sở ».

2- Trường hợp có nhiều ngân hàng tham gia quan hệ thư tín dụng

Giới thiệu.

Vấn đề về luật áp dụng trở nên phức tạp hơn khi có sự tham gia của nhiều ngân hàng vào giao dịch tín dụng chứng từ. Chúng ta có thể nghĩ đến một giải pháp duy nhất và áp dụng luật của nước nơi ngân hàng phát hành có trụ sở cho tất cả mối quan hệ phát sinh từ thư tín dụng. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu lại cho rằng mỗi quan hệ cần phải chịu sự điều chỉnh của một hệ thống pháp luật riêng. Trên thực tế có rất nhiều tranh chấp về thư tín dụng có sự liên quan của nhiều ngân hàng ở các quốc gia khác nhau. Phán quyết của tòa án Anh sau đây là một ví dụ.

Án lệ. Phán quyết này của thẩm phán Justice Mance liên quan đến luật điều chỉnh thư tín dụng thương mại theo Công ước Rome ngày 19 tháng 6 năm 1980. Tuy đây là một bản án của Anh nhưng vì nó áp dụng Công ước Rome và Pháp cũng là thành viên của Công ước này nên việc nghiên cứu phán quyết của thẩm phán Anh sẽ giúp chúng ta tích lũy nhiều kinh nghiệm quý báu.

Một ngân hàng tại Ấn Độ, theo yêu cầu của nhà nhập khẩu Ấn Độ, đã phát hành một thư tín dụng cho người thụ hưởng là một công ty có trụ sở tại London (Anh) nhằm thanh toán hợp đồng mua bán sản phẩm luyện kim. Thư tín dụng được xác nhận bởi một ngân hàng Ấn Độ, chi nhánh tại London. Ngân hàng xác nhận đã thanh toán khoản tiền theo thư tín dụng. Sau đó, ngân hàng phát hành phát hiện ra rằng các chứng từ do người thụ hưởng xuất trình là giả mạo và do đó từ chối trả tiền cho ngân hàng xác nhận. Tranh chấp này sẽ do pháp luật quốc gia nào điều chỉnh ? Vì có nhiều mối quan hệ phát sinh trong giao dịch tín dụng chứng từ trên nên sẽ có nhiều giả thiết về luật áp dụng được đặt ra.

Quan hệ giữa ngân hàng phát hành và ngân hàng xác nhận là hợp đồng đại diện với nghĩa vụ đặc thù của hợp đồng là việc xác nhận thư tín dụng. Đó là mục đích mà ngân hàng xác nhận tham gia vào giao dịch này. Luật áp dụng là luật của Anh bởi vì chi nhánh ngân hàng tại Anh cam kết xác nhận thư tín dụng. Theo thẩm phán Mance, quan hệ giữa ngân hàng xác nhận và người thụ hưởng cũng do luật của Anh điều chỉnh căn cứ vào điều 4, khoản 2, Công ước Rome.

Mối quan hệ giữa ngân hàng phát hành tại Ấn Độ và người thụ hưởng tại Anh sẽ chịu sự điều chỉnh của pháp luật quốc gia nào? Theo điều 4, khoản 2, luật áp dụng là luật của Ấn Độ. Do vậy, có thể nhận định rằng một quan hệ tín dụng chứng từ có thể do hai hệ thống pháp luật khác nhau điều chỉnh, tùy thuộc vào việc người thụ hưởng yêu cầu ngân hàng phát hành hoặc ngân hàng xác nhận thanh toán. Theo thẩm phán Mance, giải pháp này sẽ gặp nhiều bất cập. Trên thực tế, ngân hàng xác nhận đã thanh toán cho người thụ hưởng và yêu cầu ngân hàng phát hành trả tiền lại cho mình, tranh chấp này sẽ do luật của Anh điều chỉnh. Nhưng nếu người thụ hưởng yêu cầu ngân hàng phát hành tại Ấn Độ thanh toán thi tranh chấp này do luật của Ấn Độ điều chỉnh.

Để vụ việc sáng tỏ hơn, thẩm phán Mance căn cứ vào điều 4, khoản 5 của Công ước Rome theo đó : « Các quy định tại khoản 2, 3 và 4 sẽ không được áp dụng trong trường hợp hợp đồng có mối liên hệ mật thiết nhất với một nước khác ». Do đó, trong trường hợp thư tín dụng được xác nhận theo yêu cầu của ngân hàng phát hành thì mối quan hệ giữa ngân hàng phát hành và người thụ hưởng sẽ do luật của Anh điều chỉnh vì hợp đồng tín dụng đó có mối liên hệ mật thiết nhất với London, nơi có trụ sở của ngân hàng xác nhận.

Án lệ (tiếp).

Năm 1992, Tòa thương mại Paris cũng giải quyết một vụ việc phức tạp tương tự. Công ty Total (Liban) ký hợp đồng mua một tàu chở dầu với một công ty của Panama, thanh toán bằng thư tín dụng do một ngân hàng tại Liban phát hành. Khoản tiền của thư tín dụng được thanh toán tại tại Geneva (Thụy Sỹ). Ngân hàng Liban yêu cầu ngân hàng Saradar (Pháp) xác nhận thư tín dụng và ngân hàng Bruxelles-Lambert đóng vai trò vừa là ngân hàng thông báo vừa là ngân hàng xác nhận. Như vậy, có hai ngân hàng tại Pháp và Thụy Sỹ xác nhận thư tín dụng trên.

Ngày 24 tháng 10, người thụ hưởng xuất trình bộ chứng từ tại ngân hàng Bruxelles-Lambert và ngày 29 tháng 10, ngân hàng Saradar thông báo cho ngân hàng Bruxelles-Lambert rằng các chứng từ hoàn toàn phù hợp và họ đồng ý thanh toán lại cho ngân hàng Thụy Sỹ vào ngày 16 tháng 12. Do đó, ngân hàng Bruxelles-Lambert đã thanh toán khoản tiền của thư tín dụng cho người thụ hưởng. Về phía người yêu cầu mở thư tín dụng, sau khi nhận được các chứng từ, công ty Total (Liban) nhận lô hàng vào ngày 5 tháng 12.

Đến ngày 12 tháng 12, tức là đã vượt quá « thời hạn hợp lý » để từ chối chứng từ theo quy định của UCP, ngân hàng Saradar thông báo cho ngân hàng Bruxelles-Lambert rằng phát hiện điểm bất hợp lệ trong bộ chứng từ và từ chối thanh toán. Ngân hàng Thụy Sỹ khởi kiện ra Tòa thương mại Paris và ngân hàng của Pháp buộc phải thanh toán cho ngân hàng Thụy Sỹ. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là luật quốc gia nào sẽ áp dụng cho tranh chấp giữa hai ngân hàng này ?

Ngân hàng Bruxelles-Lambert cho rằng luật áp dụng là luật Thụy Sỹ vì « nghĩa vụ đặc thù trong giao dịch tín dụng chứng từ là việc thanh toán thư tín dụng, được thực hiện tại Thụy Sỹ ». Hơn nữa, các quy định của luật Thụy Sỹ về thư tín dụng sẽ có lợi cho ngân hàng Bruxelles-Lambert hơn là luật của Pháp. Tòa án Pháp nhận định rằng, trong mối quan hệ giữa ngân hàng Bruxelles-Lambert (Thụy Sỹ) và ngân hàng Saradar (Pháp), ngân hàng thực hiện nghĩa vụ đặc thù là ngân hàng Saradar vì đó là « nghĩa vụ của ngân hàng thực hiện việc thanh toán sau khi kiểm tra bộ chứng từ hoặc từ chối nếu chứng từ không phù hợp ». Trong vụ việc này, ngân hàng Saradar có nghĩa vụ thanh toán lại cho ngân hàng Bruxelles-Lambert khoản tiền mà ngân hàng này đã trả cho người thụ hưởng.

Nhận xét. Công ước Rome có vai trò rất quan trọng trong việc xác định luật áp dụng trong các tranh chấp tại Pháp. Nó thay thế hoàn toàn cho các quy phạm xung đột trong pháp luật quốc gia. Hơn nữa, do sự phức tạp của những mối quan hệ hợp đồng phát sinh từ giao dịch thư tín dụng, các tiêu chí của Công ước cần phải được vận dụng một cách riêng biệt. Cần lưu ý rằng việc áp dụng những tiêu chí này có thể dẫn đến áp dụng một hệ thống luật cho nhiều quan hệ.

II – Việc xác định luật áp dụng tại Việt Nam

Văn bản pháp luật.

Theo pháp luật Việt Nam, khi các bên không có thỏa thuận về luật áp dụng thì quyền và nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng được xác định theo pháp luật của nước nơi thực hiện hợp đồng.

Do đó, cần xác định nơi thực hiện thư tín dụng. Điều này quả thật không dễ dàng. Đối với hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng phát hành và người thụ hưởng hoặc giữa ngân hàng phát hành và ngân hàng xác nhận/ngân hàng chiết khấu, nơi thực hiện hợp đồng ở địa điểm nào ? Các quan hệ hợp đồng giữa các bên trong giao dịch tín dụng chứng từ là khác nhau, vì thế nơi thực hiện hợp đồng tín dụng cũng sẽ khác nhau.

Bên cạnh đó, trong trường hợp hợp đồng không ghi nơi thực hiện thì việc xác định nơi thực hiện hợp đồng phải tuân theo pháp luật Việt Nam. Điều 284, khoản 2(b) của Bộ luật dân sự quy định rằng trong trường hợp không có thỏa thuận thì địa điểm thực hiện nghĩa vụ dân sự là nơi cư trú hoặc trụ sở của bên có quyền, nếu đối tượng của nghĩa vụ không phải là bất động sản.

Bản án.

Để hiểu rõ hơn về những khó khăn trong việc xác định nơi thực hiện thư tín dụng, chúng ta cùng lấy một ví dụ, đó là tranh chấp do Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh giải quyết liên quan đến thư tín dụng giữa các công ty Việt Nam và Hàn Quốc.

Công ty L.G. (Hàn Quốc) và công ty C&T (Việt Nam) ký kết hợp đồng mua bán dây đồng. Hợp đồng có điều khoản quy định về việc mở thư tín dụng không hủy ngang cho người thụ hưởng là công ty L.G. Ngân hàng V.H. phát hành thư tín dụng theo yêu cầu của công ty C&T. Ngân hàng ABN-AMRO, chi nhánh Seoul là ngân hàng thông báo. Thư tín dụng hết hiệu lực vào ngày 20 tháng 8 năm 1996 tại Hàn Quốc.

Theo các điều khoản và điều kiện của thư tín dụng, thư tín dụng có thời hạn 360 ngày, thanh toán bằng hối phiếu tại ngân hàng V.H. Người thụ hưởng phải xuất trình bộ chứng từ tại ngân hàng phát hành và nếu các chứng từ thể hiện trên bề mặt là phù hợp thì ngân hàng có nghĩa vụ thanh toán cho người thụ hưởng khi đến hạn. Như chúng ta đã tìm hiểu, phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là một cam kết mà ngân hàng phát hành dành cho người thụ hưởng và người thụ hưởng có quyền yêu cầu ngân hàng thanh toán cho mình số tiền trong thư tín dụng với điều kiện chứng từ phù hợp. Theo điều 284, khoản 2(b), Bộ luật dân sự, địa điểm thực hiện nghĩa vụ dân sự là nơi có trụ sở của bên có quyền, tức là tại nơi có trụ sở của công ty Hàn Quốc.

Tuy nhiên về các vụ việc có yếu tố tương tự do tòa án Singapore giải quyết, thẩm phán Singapore lại nhận định rằng « trong trường hợp các bên không có thỏa thuận thì luật áp dụng là luật của nước có mối liên hệ mật thiết với hợp đồng. Đối với hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng phát hành và người thụ hưởng, hợp đồng có mối liên hệ mật thiết nhất với nơi thanh toán thư tín dụng. Do đó, quan hệ giữa ngân hàng phát hành và người thụ hưởng sẽ chịu sự điều chỉnh của luật nơi thực hiện việc thanh toán ». Thẩm phán cho rằng người thụ hưởng có nghĩa vụ xuất trình bộ chứng từ tại ngân hàng phát hành bởi thư tín dụng chỉ được thanh toán khi ngân hàng phát hành chấp nhận hối phiếu. Nếu nhìn nhận vụ việc trên theo quan điểm của các thẩm phán Singapore, nơi thực hiện hợp đồng tín dụng sẽ là Việt Nam, vì thế luật Việt Nam sẽ được áp dụng.

Xem xét các yếu tố khác của thư tín dụng cho thấy ngân hàng thông báo được phép chiết khấu thư tín dụng. Do vậy, ngân hàng ABN-AMRO, chi nhánh Seoul có thể tham gia với tư cách ngân hàng thông báo và ngân hàng chiết khấu. Nó có quyền chiết khấu bộ chứng từ nếu các chứng từ thể hiện trên bề mặt phù hợp với các điều khoản và điều kiện của thư tín dụng. Giả sử người thụ hưởng Hàn Quốc không xuất trình chứng từ tại ngân hàng phát hành Việt Nam mà xuất trình tại ngân hàng ABN-AMRO. Sau khi kiểm tra, ngân hàng chiết khấu bộ chứng từ và thanh toán cho người thụ hưởng. Sau đó, ABN-AMRO có quyền yêu cầu ngân hàng phát hành hoàn trả lại số tiền đã thanh toán. Trong trường hợp này, theo điều 284, khoản 2(b), nơi thực hiện nghĩa vụ hoàn trả giữa ngân hàng Việt Nam và ngân hàng Hàn Quốc được xác định tại Hàn Quốc.

Tuy nhiên, trên thực tế, ngân hàng Korea Exchange Bank đã chiết khấu chứng từ. Các học giả cho rằng « cho dù thư tín dụng được phép chiết khấu bởi ngân hàng thông báo hoặc bởi bất kỳ ngân hàng nào thì luật áp dụng cho quan hệ giữa ngân hàng phát hành và ngân hàng chiết khấu không có gì thay đổi ». Nếu thư tín dụng được tự do chiết khấu tại bất kỳ ngân hàng nào tại Hàn Quốc thì luật của Hàn Quốc vẫn được áp dụng.

Do ngân hàng Việt Nam không có khả năng thanh toán nợ đến hạn, ngân hàng chiết khấu Hàn Quốc đã kiện ngân hàng Việt Nam tại Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Theo phân tích trên đây, nơi thực hiện nghĩa vụ hợp đồng giữa ngân hàng Việt Nam và Hàn Quốc được xác định tại Hàn Quốc. Tuy nhiên, thẩm phán đã áp dụng pháp luật Việt Nam mà không có bất kỳ giải thích, lập luận nào.

Theo các tác giả Đỗ Văn Đại và Mai Hồng Quỳ, « để giúp các bên và tòa án trong việc xác định pháp luật áp dụng cho hợp đồng, chúng ta cần có những quy định cụ thể về nơi thực hiện hợp đồng ». Chẳng hạn, chúng ta có thể quy định nơi thực hiện hợp đồng là nơi thực hiện nghĩa vụ đặc thù của hợp đồng, tức là nơi đóng trụ sở của bên thực hiện nghĩa vụ đặc thù đó. Mặt khác, cần đưa ra một danh sách nghĩa vụ đặc thù của những hợp đồng thông dụng như đối với hợp đồng mua bán là nghĩa vụ của người bán, hợp đồng ủy thác là nghĩa vụ của người nhận ủy thác, v.v... Cần lưu ý rằng trong quan hệ hợp đồng giữa ngân hàng phát hành và người thụ hưởng, người thụ hưởng phải xuất trình bộ chứng từ tại ngân hàng phát hành. Nếu các chứng từ phù hợp với yêu cầu của thư tín dụng thì ngân hàng phải thanh toán khi đến hạn. Do đó, nghĩa vụ đặc thù của hợp đồng tín dụng là nghĩa vụ thanh toán của ngân hàng phát hành, luật áp dụng là luật của Việt Nam. Trong quan hệ hợp đồng giữa ngân hàng phát hành và ngân hàng chiết khấu, nghĩa vụ đặc thù do ngân hàng chiết khấu thực hiện, luật áp dụng là luật của Hàn Quốc.

Nhận xét. Qua những phân tích trên, chúng ta có thể kết luận rằng quan điểm của thẩm phán mỗi nước có ý nghĩa quyết định đối với luật điều chỉnh các quan hệ hợp đồng trong giao dịch tín dụng chứng từ. Do tính chất phức tạp của các quan hệ hợp đồng trong thư tín dụng nên có thể dẫn đến nhiều luật áp dụng cho một quan hệ hoặc mỗi quan hệ lại do một hệ thống pháp luật riêng biệt điều chỉnh. Vì thế, nên chăng các bên thỏa thuận rõ ràng, cụ thể nơi thực hiện hợp đồng trong giao dịch tín dụng thư ?

Nhận xét so sánh.

Hai hệ thống pháp luật đều thừa nhận khả năng áp dụng pháp luật nước ngoài đối với giao dịch tín dụng chứng từ khi các bên không thỏa thuận về luật áp điều chỉnh. Trong trường hợp phát sinh tranh chấp, thẩm phán sẽ căn cứ vào quy phạm xung đột để xác định luật điều chỉnh.

Trong luật của Pháp, các quy phạm xung đột được quy định trong Công ước Rome ngày 19 tháng 6 năm 1980, theo đó hợp đồng chịu sự điều chỉnh của luật của quốc gia mà hợp đồng đó có mối liên hệ mật thiết nhất. Theo tinh thần của Công ước Rome, hợp đồng có mối liên hệ mật thiết nhất với quốc gia có nơi cư trú hoặc trụ sở của bên thực hiện nghĩa vụ đặc thù vào thời điểm xác lập hợp đồng.

Căn cứ vào quy phạm xung đột của pháp luật Việt Nam, được cụ thể hóa trong Bộ luật dân sự, quyền và nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng được xác định theo pháp luật của nước nơi thực hiện hợp đồng. Do vậy, với những tiêu chí khác nhau, một quan hệ có thể chịu sự điều chỉnh của một hệ thống luật khác nhau, tùy thuộc vào quy định của từng quốc gia.

Tuy nhiên, các thẩm phán của Pháp và Việt Nam đều phải đối mặt với nhiều khó khăn trong quá trình xác định nghĩa vụ đặc thù và nơi thực hiện các nghĩa vụ phát sinh trên cơ sở hợp đồng tín dụng, đặc biệt trong trường hợp có nhiều ngân hàng tham gia vào giao dịch tín dụng chứng từ.

Kết luận 

Qua việc nghiên cứu các vấn đề trong chương I, chúng ta nhận thấy rằng số lượng các bản án liên quan đến xung đột pháp luật trong lĩnh vực thư tín dụng còn rất hạn chế, trong khi đó, tín dụng chứng từ là một phương thức thanh toán được sử dụng khá phổ biến trong thương mại quốc tế, những tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể tại nhiều quốc gia khác nhau có thể dẫn đến các vấn đề xung đột pháp luật phức tạp.

Mỗi quan hệ hợp đồng trong thư tín dụng có thể chịu sự điều chỉnh của một hệ thống pháp luật riêng biệt. Luật áp dụng cho hợp đồng thương mại không thể được áp dụng đối với hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng phát hành hoặc ngân hàng xác nhận với người thụ hưởng. Để xác định luật điều chỉnh phù hợp cho từng quan hệ, chúng ta cần xem xét nhiều yếu tố.

Bên cạnh đó, có thể thấy rằng thẩm phán gặp nhiều khó khăn trong việc xác định luật áp dụng đối với giao dịch thư tín dụng do các bên liên quan thường bất đồng về vấn đề này, luôn muốn tòa án áp dụng hệ thống luật có lợi cho mình. Từ đó, nên chăng đưa vào thư tín dụng một điều khoản về luật áp dụng ? Chúng ta hãy tìm hiểu khả năng này trong chương tiếp theo.

CHƯƠNG II

SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT QUỐC GIA

ĐỐI VỚI TÍN DỤNG CHỨNG TỪ

KHI CÁC BÊN LỰA CHỌN ÁP DỤNG

UCP thừa nhận lựa chọn áp dụng pháp luật quốc gia.

Theo giáo sư Stoufflet, « việc UCP điều chỉnh giao dịch tín dụng chứng từ không ngăn cản các bên loại trừ những quy định của UCP mà họ cảm thấy không phù hợp với lợi ích của mình. UCP đã quy định rõ ràng như vậy ». Do đó, các bên hoàn toàn có quyền không áp dụng UCP để lựa chọn hệ thống pháp luật điều chỉnh quan hệ thư tín dụng nhằm bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích của mình. Pháp luật của Pháp (Phân đoạn I) và pháp luật Việt Nam (Phân đoạn II) có thừa nhận quyền lựa chọn này hay không ? Chúng ta cùng tìm câu trả lời.

I – Việc lựa chọn luật áp dụng tại Pháp

Khả năng lựa chọn.

Theo Công ước Rome, « hợp đồng do pháp luật mà các bên lựa chọn điều chỉnh » và việc lựa chọn luật áp dụng « phải rõ ràng và được quy định cụ thể trong hợp đồng » (điều 3, khoản 1). Do vậy, có thể khẳng định rằng các bên có quyền chọn luật áp dụng. Lựa chọn này phải được tôn trọng. Như chúng ta đã đề cập, thư tín dụng thực chất là một hợp đồng, các quy định trên của Công ước Rome cũng được áp dụng đối với giao dịch tín dụng chứng từ. Do đó, các bên có quyền chọn lựa một hệ thống pháp luật phù hợp với quan hệ hợp đồng và ở đây « khi tồn tại điều khoản về chọn luật áp dụng, sự lựa chọn này là bắt buộc ». Cần lưu ý rằng điều khoản này của Công ước thừa nhận các bên có quyền lựa chọn luật điều chỉnh cho toàn bộ hoặc một phần của hợp đồng.

Hiệu lực bắt buộc.

Khi các bên lựa chọn luật áp dụng thì lựa chọn đó trở thành một bộ phận của hợp đồng. Các hành vi vi phạm luật điều chỉnh tức là vi phạm hợp đồng. Thẩm phán và các bên liên quan đều chịu sự ràng buộc của luật điều chỉnh hợp đồng. Theo một số học giả, « trong hoạt động phát hành thư tín dụng, các ngân hàng thường đưa vào thư tín dụng một điều khoản dẫn chiếu áp dụng UCP nhưng không hề nhắc đến luật quốc gia điều chỉnh quan hệ tín dụng chứng từ ». Trong thực tế, việc lựa chọn pháp luật áp dụng vẫn chưa phổ biến. Chúng tôi không tìm thấy bản án nào của Pháp liên quan đến thư tín dụng chứa đựng điều khoản về dẫn chiếu luật áp dụng.

II – Việc lựa chọn luật áp dụng tại Việt Nam

Tự do lựa chọn.

Theo điều 769, khoản 1, Bộ luật dân sự, « quyền và nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng được xác định theo pháp luật của nước nơi thực hiện hợp đồng, nếu không có thỏa thuận khác ». Trong trường hợp các bên xác định luật áp dụng thì có thể kết luận rằng các bên đã có thỏa thuận khác. Do vậy, pháp luật do các bên lựa chọn sẽ được áp dụng đối với quan hệ hợp đồng của họ. Các văn bản pháp luật khác của Việt Nam cũng thừa nhận quyền lựa chọn luật điều chỉnh.

Có thể kết luận rằng pháp luật Việt Nam cho phép các bên lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng. Tuy nhiên, các văn bản trên lại không quy định rõ ràng thời điểm các bên thực hiện quyền lựa chọn. Theo quan điểm của chúng tôi, các bên có thể lựa chọn luật điều chỉnh trong quá trình xác lập hợp đồng hoặc một thời gian sau đó, ví dụ khi phát sinh tranh chấp tại tòa án.

Thực tế.

Vào thời điểm hiện tại, các thư tín dụng do ngân hàng ở Việt Nam phát hành chỉ chứa đựng duy nhất điều khoản dẫn chiếu áp dụng UCP mà không đề cập đến luật điều chỉnh thư tín dụng. Dường như các ngân hàng không quan tâm đến khả năng áp dụng của pháp luật quốc gia mà cho rằng mọi vấn đề liên quan đến thư tín dụng đều được quy định trong UCP. Đó là một sai lầm bởi như chúng ta đã phân tích ở trên, có nhiều tình huống mà việc áp dụng pháp luật quốc gia là cần thiết, nhất là trong trường hợp gian lận.

Nhận xét so sánh.

Pháp luật của Pháp và Việt Nam đều cho phép các bên trong hợp đồng lựa chọn luật áp dụng. Nhận thức rõ về những khó khăn trong việc xác định luật áp dụng khi các bên không lựa chọn luật điều chỉnh, nên chăng các bên thỏa thuận trước về vấn đề này nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Trên thực tế, việc đặt ra vấn đề lựa chọn luật áp dụng không đơn giản. Lựa chọn luật áp dụng giúp bảo đảm tính an toàn về pháp lý trong trường hợp phát sinh tranh chấp bởi các bên liên quan đã tìm hiểu về hệ thống pháp luật điều chỉnh. Tuy nhiên việc đưa ra vấn đề chọn luật từ thời điểm xác lập thư tín dụng có thể gây ra sự hiểu lầm giữa các đối tác. Nếu các bên quyết định lựa chọn luật áp dụng cho giao dịch tín dụng chứng từ thì họ có thể bổ sung vào thư tín dụng điều khoản dẫn chiếu như sau : « Đối với mọi vấn đề liên quan đến thư tín dụng này mà không được quy định trong Bản Quy Tắc và Thực Hành Thống Nhất thì sẽ chịu sự điều chỉnh của các quy phạm thực chất của pháp luật quốc gia nơi ngân hành phát hành có trụ sở », bởi như chúng ta đã nghiên cứu, đối với hợp đồng tín dụng, ngân hàng phát hành là chủ thể thực hiện nghĩa vụ đặc thù.

Kết luận 

Theo quan điểm của chúng tôi, sự điều chỉnh của pháp luật quốc gia đối với giao dịch tín dụng chứng từ là cần thiết vì những lý do mà giáo sư Legeais đã nêu. Trong đó, trường hợp gian lận có tầm quan trọng nhất bởi các vấn đề liên quan đến gian lận không được UCP quy định.

Do đó, để bảo vệ quyền và lợi ích của mình khi có tranh chấp phát sinh, các bên có thể chọn luật áp dụng cho quan hệ hợp đồng bằng cách đưa vào thư tín dụng một điều khoản dẫn chiếu về luật áp dụng. Các bên liên quan cũng có quyền loại trừ việc áp dụng toàn bộ hoặc một số quy định của UCP mà họ cho rằng không có lợi cho quan hệ hợp đồng.

Nên chăng các cơ quan lập pháp của Pháp và Việt Nam ban hành văn bản pháp luật về giao dịch tín dụng chứng từ. Các văn bản này sẽ quy định cụ thể các vấn đề không được đề cập trong UCP.

Kết luận chung

Phần hai tập trung nghiên cứu sự điều chỉnh của pháp luật quốc gia đối với tín dụng chứng từ. Có một số điểm giống nhau giữa hai hệ thống pháp luật của Pháp và Việt Nam.

Pháp luật của hai nước đều thừa nhận khả năng áp dụng của pháp luật quốc gia cho dù các bên có lựa chọn hay không. Tuy nhiên, khi không có điều khoản dẫn chiếu trong hợp đồng, các thẩm phán của Pháp và Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong việc xác định luật áp dụng cho tranh chấp thư tín dụng.

Một điểm tương đồng nữa cần lưu ý, đó là khi các bên trong giao dịch thư tín dụng không lựa chọn luật áp dụng thì việc giải quyết tranh chấp tại tòa án sẽ khá phức tạp. Do đó, các bên liên quan nên dự trù luật điều chỉnh trong quá trình xác lập thư tín dụng.

Bên cạnh đó, cũng có nhiều điểm khác biệt giữa pháp luật của Pháp và Việt Nam. Thẩm phán của hai nước xác định luật áp dụng trên cơ sở những tiêu chí khác nhau. Ở Pháp, đó là nguyên tắc hợp đồng có mối liên hệ mật thiết nhất với nước có trụ sở của bên thực hiện nghĩa vụ đặc thù. Ở Việt Nam, hợp đồng lại chịu sự điều chỉnh của pháp luật của nước nơi thực hiện hợp đồng. Nên chăng pháp luật Việt Nam quy định cụ thể nơi thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng, chẳng hạn như là địa điểm thực hiện nghĩa vụ đặc thù.

Xuân Quỳnh
Khoa Quốc tế ĐH Luật TPHCM
Tháng 4-2007)

SOURCE: WWW.TAND.HOCHIMINHCITY.GOV.VN

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét