Thứ Bảy, 15 tháng 12, 2007

Phát triển các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành phần

TS. Đinh Văn Ân - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế TW


Để hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc công nhận, bảo hộ chế độ đa sở hữu và phát triển các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, do các doanh nghiệp luôn là những chủ thể quan trọng nhất của các nền kinh tế.

Trong những năm đổi mới vừa qua, đồng thời với việc đã hiến pháp hoá chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, công nhận, bảo hộ chế độ đa sở hữu, trong đó có sở hữu tư nhân, Đảng và Nhà nước ta đã từng bước xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế đối với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.

Doanh nghiệp nhà nước

Cho đến những năm gần đây, DNNN vẫn giữ một vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta: năm 2000, DNNN đóng góp 39,5% giá trị sản lượng công nghiệp, trên 50% kim ngạch xuất khẩu, 39,2% tổng thu ngân sách nhà nước.

Trong thời gian qua, Nhà nước đã thực hiện nhiều biện pháp trợ giúp DNNN như: miễn thuế, giảm thuế, cho vay ưu đãi, vay không phải thế chấp, khoanh nợ, dãn nợ, chuyển nợ thành vốn ngân sách cấp, tham gia xuất khẩu trả nợ nhà nước, được trúng thầu hoặc được giao thầu nhiều công trình do Nhà nước đầu tư, để lại khấu hao cơ bản tái đầu tư, v.v... Tuy vậy, những yếu kém của DNNN vẫn còn rất nghiêm trọng. Đó là: năng lực cạnh tranh thấp kém, do chất lượng thấp, giá thành của nhiều sản phẩm còn cao; nhiều mặt hàng cao hơn giá mặt hàng cùng loại nhập khẩu (như sắt thép, phân bón, xi măng, đường); công nợ quá lớn, nợ quá hạn, nợ khó đòi ngày càng tăng (DNNN chiếm tới 74,8% trong số nợ quá hạn của ngân hàng thương mại quốc doanh); quy mô quá nhỏ; công nghệ lạc hậu, v.v... Có những doanh nghiệp đáng ra phải cho phá sản vì thua lỗ kéo dài, không cách nào cứu vãn được, nhưng vẫn phải để tồn tại, hàng năm tiếp tục lỗ thêm.

Trước tình hình đó, việc cải cách DNNN đã trở thành hết sức cấp bách. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới, càng thấy rõ yêu cầu này. Nhiều DNNN đang cung ứng những hàng hoá, dịch vụ chủ yếu là chi phí đầu vào của các doanh nghiệp, thế nhưng kinh doanh kém hiệu quả, giá thành cao, nếu không gấp rút cải thiện kinh doanh thì rất khó khăn trong việc giảm chi phí đầu vào, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cả nước.

Yêu cầu của việc cải cách DNNN là điều chỉnh cơ cấu, để DNNN có cơ cấu hợp lý, tâp trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng; là đa dạng hoá sở hữu, chuyển từ chế độ sở hữu duy nhất là Nhà nước sang đa sở hữu, kể cả sở hữu tư nhân; mục tiêu là sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động và cơ sở vật chất - kỹ thuật của DNNN, phát triển sản xuất kinh doanh.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 của BCH trung ương Đảng (tháng 9-2001) về DNNN đã quyết định đến năm 2005, hoàn thành cơ bản việc sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu DNNN hiện có (khoảng 5.175 doanh nghiệp vào cuối năm 2002), bằng các hình thức: cổ phần hoá; chuyển một số DNNN hoặc doanh nghiệp trực thuộc các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội sang loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (còn gọi là công ty hoá); sáp nhập, giải thể, phá sản; giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê. Tuy vậy, theo lộ trình đã được duyệt, đến năm 2005, số DNNN còn lại vẫn vào khoảng 2934 doanh nghiệp, trong đó bao gồm số DNNN mà Nhà nước giữ 100% vốn (1929 doanh nghiệp), doanh nghiệp cổ phần hoá mà Nhà nước giữ cổ phần chi phối, doanh nghiệp hợp nhất hoặc chuyển cơ quan quản lý và DNNN được khoán kinh doanh. Phải chăng số DNNN còn lại quá nhiều, việc cải cách DNNN chưa thật đúng với yêu cầu ?

Để nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN hiện có, đồng thời phát triển thêm doanh nghiệp mà Nhà nước đầu tư 100% vốn hoặc có cổ phần chi phối ở một số ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng, đã có nhiều cố gắng tìm tòi, thử nghiệm để tìm ra nội dung và phương pháp tổ chức quản lý và điều hành DNNN (các tổng công ty 90, 91). Tuy vậy, DNNN vẫn chưa thực sự tự chịu trách nhiệm về sản xuất, kinh doanh (quyền hạn, trách nhiệm của giám đốc, tổng giám đốc, mối quan hệ giữa hội đồng quản trị với giám đốc, tổng giám đốc chưa được quy định rõ ràng); còn nhiều ràng buộc từ các cơ quan chủ quản (UBND địa phương, Tổng công ty, Bộ), chủ yếu là phương án đầu tư, sắp xếp nhân sự; cơ chế quản lý vốn nhà nước trong doanh nghiệp chưa rõ ràng, v.v... Cũng đang có quá nhiều đầu mối quản lý DNNN, dẫn đến không thống nhất, khó khăn cho DNNN.

Việc thí điểm mô hình công ty mẹ - công ty con (từ tháng 1-2003) được nhiều tổng công ty nhanh chóng hoan nghênh và đăng ký thực hiện (mặc dù gọi là thí điểm, dự kiến ban đầu khoảng 10 đơn vị, nhưng đã chọn cho 36 đơn vị thực hiện). Nguyên nhân chủ yếu là cấp tổng công ty (công ty mẹ) vẫn giữ được quyền chi phối đối với công ty con về nhiều mặt, không khác lắm so với quyền của tổng công ty trước kia đối với doanh nghiệp thành viên; đồng thời lại được bổ sung thêm vốn.

Việc chuyển DNNN, doanh nghiệp của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoạt động theo Luật Doanh nghiệp (gọi tắt là công ty hoá) không đạt kết quả như mong muốn do các doanh nghiệp loại này còn đang được hưởng nhiều chính sách ưu đãi, lại chưa có hành lang pháp lý rõ ràng để chuyển đổi.

Từ khi có chủ trương thí điểm cổ phần hoá (năm 1992) rồi mở rộng (năm 1998), đến giữa năm 2002, mới có 828 doanh nghiệp và bộ phận DNNN được cổ phần hoá, chiếm khoảng 3% tổng số vốn của DNNN. Đáng chú ý là năm 2001 số doanh nghiệp cổ phần hoá lên tới 250, gấp hơn hai lần so với năm 2000, nhưng đến năm 2002, bị chững lại, chỉ được khoảng 150 doanh nghiệp, chủ yếu là do luồng ý kiến chống lại cổ phần hoá được lan truyền ở nhiều địa phương, gây ra tình trạng hoang mang, dè dặt, nghe ngóng, không mạnh dạn đẩy mạnh cổ phần hoá vì sợ bị phê phán là "chệch hướng xã hội chủ nghĩa" và nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan khác.

Theo lộ trình đã được phê duyệt của 104 đề án (tháng 10 năm 2003), đến năm 2005, số DNNN sẽ được cổ phần hoá là 2043 (chiếm 44% số DNNN, nhưng cũng chỉ có 18% số vốn nhà nước được cổ phần hoá (có nghĩa là những DNNN được cổ phần hoá có quy mô vốn quá nhỏ); đồng thời số doanh nghiệp còn do Nhà nước giữ cổ phần chi phối vẫn chiếm tới 1038 doanh nghiệp.

Việc giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê nhằm đa dạng hoá sở hữu, khơi dậy động lực và giải quyết các khó khăn của doanh nghiệp quy mô nhỏ, tránh được việc giải thể, phá sản doanh nghiệp, khắc phục được tình trạng người lao động thiếu việc làm, giảm được bao cấp, bù lỗ của Nhà nước. Tuy vậy, cho đến năm 2000, mới có khoảng 130 DNNN và theo lộ trình từ năm 2002 đến năm 2005, cũng chỉ có 209 doanh nghiệp chiếm 2,9% tổng số DNNN được chuyển đổi theo một trong những phương thức nói trên. Đang còn quá nhiều quy định cứng nhắc làm cho giải pháp này thực sự khó thực hiện.

Đối với doanh nghiệp công ích, do chỗ chưa xác định rõ tiêu chí sản phẩm, dịch vụ và DNNN hoạt động công ích, đã dẫn đến tình trạng mở rộng quá đáng danh mục (có tới 30 nhóm sản phẩm dịch vụ thuộc loại sản phẩm, dịch vụ công ích), được hưởng nhiều chính sách ưu đãi, số DNNN làm nhiệm vụ công ích đã phát triển tràn lan, từ 617 doanh nghiệp vào năm 1999 thì năm 2000 đã lên đến 732 doanh nghiệp, chiếm 12,8% tổng số DNNN, trong đó có những ngành nghề kinh doanh đáng lẽ không thuộc công ích, như xuất bản sách, truyền hình, v.v... Hơn nữa, lại không phân biệt việc cung ứng các sản phẩm, dịch vụ công ích với xếp loại doanh nghiệp làm nhiệm vụ công ích. Việc thành lập mới hoặc chuyển DNNN, đơn vị sự nghiệp thành doanh nghiệp công ích tương đối dễ dàng, DNNN hoạt động công ích được bao cấp khá nhiều so với DNNN hoạt động kinh doanh (như được ưu đãi về tài chính; lại không phải lo việc tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ); có nhiều DNNN được xếp một cách không hợp lý vào công ích để hưởng ưu đãi. Do đó, Luật DNNN năm 2003 đã xoá bỏ khái niệm doanh nghiệp công ích để chuyển sang áp dụng chế độ đặt hàng, gọi thầu dịch vụ công ích.

Về phá sản doanh nghiệp, sau 9 năm từ khi có Luật Phá sản đến năm 2003, Toà án nhân dân tối cao mới thụ lý 151 đơn yêu cầu tuyên bố phá sản, nhưng toà án các cấp chỉ tuyên bố phá sản cho 46 doanh nghiệp. Trong thực tế, số DNNN làm ăn kém hiệu quả, nợ nần tồn đọng, mất khả năng thanh toán nợ đến hạn, rơi vào tình trạng phá sản nhiều hơn rất nhiều. Nguyên nhân là do nhiều quy định trong Luật không phù hợp. Theo Luật, chỉ có ba chủ thể có quyền yêu cầu phá sản là giám đốc, chủ nợ và người lao động; đáng lẽ cần có thêm cơ quan quyết định thành lập, nhưng cơ quan này thường tìm cách lẩn tránh cho doanh nghiệp khỏi bị phá sản! Thủ tục phá sản quá phức tạp, nhiêu khê. Công việc kéo dài còn do khó xác định công nợ và định giá tài sản. Doanh nghiệp đã nợ nần chồng chất, nay muốn tuyên bố phá sản lại phải thuê kiểm toán, doanh nghiệp càng không có tiền, ngân sách phải bỏ tiền ra, do vậy doanh nghiệp vẫn cứ phải sống.

Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng nói trên là do chưa giải quyết được thông suốt những vấn đề sau đây:

- Trước hết là quan niệm về sự cần thiết của DNNN. Không ai có thể phủ nhận vai trò và vị trí của DNNN trong nền kinh tế quốc dân. DNNN rất cần thiết trong những ngành nghề then chốt, có tầm quan trọng cơ bản, chủ yếu là kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội như đường sá, bến cảng, đường sắt, hàng không, v.v...Song ở nước ta hiện nay vẫn còn quan niệm muốn duy trì DNNN trong tất cả các ngành, với ý đồ bảo đảm sự chủ đạo của kinh tế nhà nước, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. những người theo quan điểm này không thấy rằng nếu cứ duy trì DNNN không hiệu quả thì càng phải bù đắp cho sự kinh doanh thua lỗ của DNNN, ảnh hưởng xấu đến toàn bộ nền kinh tế.

Mặt khác, cũng có quan niệm cho rằng những yếu kém của DNNN là do thể chế kinh tế hiện hành không tạo điều kiện cho DNNN tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều này có phần đúng, nhưng tạo tự chủ cho DNNN tức là đưa DNNN ra thị trường, bình đẳng với doanh nghiệp dân doanh trong cuộc cạnh tranh về nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh doanh, thực chất là công ty hoá DNNN kinh doanh, áp dụng thể chế quản lý như đối với doanh nghiệp tư nhân; do vậy, điều này rất khó được chấp nhận với tư duy cũ.

Nghiêm trọng hơn nữa là có quan niệm cần thiết duy trì DNNN trong tất cả các ngành kinh tế, bởi vì nếu không như thế, doanh nghiệp dân doanh sẽ chiếm ưu thế, sẽ không thể giữ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, không có công cụ kinh tế đủ mạnh để có thể điều tiết được nền kinh tế, không thực hiện được chủ trương xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Như vậy cũng tức là chệch định hướng xã hội chủ nghĩa. Cần thấy rằng vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là do toàn bộ hệ thống các ngành, lĩnh vực thuộc kinh tế nhà nước, chứ không riêng doanh nghiệp nhà nước; đồng thời cũng không thể quan niệm vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước tách rời hệ thống chính trị; khi đã xây dựng được hệ thống chính trị vững mạnh thì mọi thành phần kinh tế đều là công cụ của Nhà nước. Khi kinh tế nhà nước nắm những ngành và lĩnh vực quyết định của nền kinh tế, mà kinh tế dân doanh có một tỷ trọng lớn, thì phải coi đây là điều đáng mừng, vì chúng ta đã phát huy được tốt mọi tiềm năng của kinh tế dân doanh, động viên được sức mạnh của cả dân tộc vào mặt trận kinh tế.

- Việc cải cách DNNN chậm chạp có một nguyên nhân quan trọng khác là Nhà nước vẫn duy trì những chính sách ưu ái đối với DNNN. Không DNNN nào lại từ chối những ân huệ đó; và khi số vốn có hạn, tình trạng xin - cho vốn bổ sung là không tránh khỏi, người có quyền ban phát lại càng muốn duy trì cơ chế đó để tiếp tục ban phát, trục lợi bất chính cho cơ quan hoặc cá nhân mình. Có thể thấy rõ: không mấy ai hăng hái sắp xếp lại DNNN: bộ chủ quản cũng như UBND chủ quản đều muốn giữ "cơ sở thuộc Nhà nước" ở ngành hoặc địa phương mình, không muốn mất "sân sau" của mình; giám đốc DNNN không muốn mất quyền tự tung tự tác như trước; người lao động thì chưa biết rõ tương lai doanh nghiệp sẽ ra sao, vì vẫn những bộ mặt cũ tiếp tục giữ vị trí lãnh đạo doanh nghiệp; còn ngân hàng thì sợ mất vốn, v.v...

- Đáng chú ý là trong thời gian thực hiện cải cách các DNNN hiện có, thì đồng thời cũng diễn ra tình hình thành lập mới DNNN một cách không hợp lý, không đúng với chủ trương của Đảng và Nhà nước(theo thống kê sơ bộ, từ 1998 đến 2001, đã có 290 DNNN thành lập mới, với số vốn Nhà nước cấp là 6.123 tỉ đồng, trong đó, số DNNN mới thành lập thuộc các bộ, tổng công ty chiếm 43,8%, thuộc địa phương chiếm 56,2%; số có vốn nhà nước dưới 5 tỉ đồng chiếm tới 52%, số có vốn dưới 1 tỉ đồng chiếm 10,8%, thậm chí có doanh nghiệp chỉ có 300 - 400 triệu đồng vốn). Những doanh nghiệp mới thành lập này không hội đủ các điều kiện quy định như về vốn, cán bộ quản lý, công nghệ, lại thuộc nhiều ngành nghề không nằm trong lĩnh vực và ngành quan trọng, thiết yếu mà Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn đáng ra nên để doanh nghiệp dân doanh đầu tư, như kinh doanh du lịch, khách sạn, xây dựng, sản xuất vật liệu xây dựng, dịch vụ vui chơi giải trí, công ty chợ, v.v... (tính riêng các DNNN mới thành lập trong lĩnh vực du lịch, thương mại, khách sạn ... đã chiếm tới 15% tổng số).

- Một biện pháp khác đang được thực hiện để trốn tránh việc cải cách, đó là chuyển giao một số DNNN do địa phương hiện đang quản lý về cho tổng công ty nhà nước, trong đó có những DNNN quy mô nhỏ, thua lỗ kéo dài, đáng lẽ ra phải chuyển đổi sở hữu, hoặc phải cho phá sản. Người ta lấy lý do là những doanh nghiệp này tuy có khó khăn về tài chính, nhưng lại có lợi thế về vị trí địa lý và quyền sử dụng đất. Các tổng công ty đều vui vẻ tiếp nhận các doanh nghiệp đó, vừa thoả mãn nhu cầu của địa phương là giữ được DNNN, vừa có lợi cho tổng công ty vì có thêm doanh nghiệp thành viên, quy mô thêm lớn, có thêm lý do để đòi hỏi bổ sung thêm vốn. Thực chất là đẩy gánh nặng từ địa phương về tổng công ty, nhưng tổng công ty vẫn vui vẻ nhận, vì cuối cùng nếu doanh nghiệp kinh doanh không hiệu quả, mà đó là điều chắc chắn, thì tổng công ty không chịu trách nhiệm và đã có ngân sách nhà nước chịu.

Tóm lại, cải cách DNNN là một yêu cầu tất yếu của nền kinh tế nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. DNNN đang trong tình trạng kinh doanh kém hiệu quả, khả năng cạnh tranh rất yếu, nhưng lại nắm tài sản lớn, giữ vị trí độc quyền trong nhiều ngành và lĩnh vực đang là đầu vào của các doanh nghiệp trong nền kinh tế; nếu không có những bước đột phá trong cải cách DNNN thì không những hạn chế việc phát huy tiềm năng của DNNN mà còn hạn chế khả năng phát triển của cả nền kinh tế.

Thực tiễn chỉ rõ: không thể giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất nếu còn giữ hai hệ thống thể chế, tức là hai sân chơi riêng cho DNNN và cho doanh nghiệp dân doanh; giữ hai sân chơi đó cũng tức là hạn chế, kìm hãm sức phát triển của kinh tế dân doanh, tiếp tục giữ thế độc quyền doanh nghiệp cho DNNN. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực hiện nay, không có cách nào khác là phải xoá bỏ bao cấp, đưa DNNN ra cạnh tranh lành mạnh trên thị trường; nếu tiếp tục giữ hai sân chơi như vậy, cũng tức là giữ cho DNNN lâm vào tình trạng kinh doanh kém hiệu quả, càng dễ sụp đổ khi chúng ta phải thực hiện các cam kết quốc tế.

Để thực hiện việc cải cách DNNN một cách có hiệu quả, tránh được những đổ vỡ, điều kiện tiên quyết là phải đổi mới tư duy, xác định sự cần thiết của các thành phần kinh tế, nhất là kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. DNNN cần thiết trong một số ngành và lĩnh vực then chốt, có tầm quan trọng cơ bản; các DNNN trong các ngành kinh doanh nhất thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh, tham gia cạnh tranh bình đẳng với các thành phần kinh tế khác; phải xoá bỏ sớm tình trạng lợi dụng độc quyền nhà nước để thực hiện độc quyền doanh nghiệp, cản trở quá trình giảm chi phí đầu vào cho các doanh nghiệp thuộc các thành phân kinh tế.

Muốn vậy, phải tổ chức lại một cách cơ bản bộ máy giúp Chính phủ, các bộ, chính quyền địa phương chỉ đạo công cuộc cải cách DNNN từ trên xuống dưới, bảo đảm một bộ máy và cán bộ, công chức có đầy tâm huyết, đủ trí tuệ và năng lực cho công việc này. Tập trung sức lành mạnh hoá tình hình tai chính DNNN, xử lý vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp, lao động dôi dư và cơ chế quản lý doanh nghiệp trong và sau khi cổ phần hoá.

Doanh nghiệp tư nhân

Nhìn lại quá trình hơn 17 năm phát triển của doanh nghiệp tư nhân và kinh tế tư nhân, ta thấy có 3 điểm mốc có tính đột phá. Đột phá thứ nhất là chuyển từ “không” thành “có” ở mức giới hạn cả về quy mô và thời gian bằng đổi mới ghi nhận trong Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng. Sự đổi mới tư duy có tính đột phá đó đã mở đường cho phát triển của doanh nghiệp tư nhân nói riêng và kinh tế nhiều thành phần nói chung xuất phát từ yêu cầu bức bách của đời sống xã hội thực tế vào thời điểm đó; và có lẽ không có sự lựa chọn khác.

Mốc thay đổi có tính đột phá thứ 2 xảy ra vào năm 1990-1991 bằng việc ban hành Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân (1990) và Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 1991-2000. Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc hình thành và phát triển các doanh nghiệp tư nhân chính quy và hiện đại với các loại hình pháp lý bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và doanh nghiệp tư nhân. Ngoài ra, hộ kinh doanh cá thể đã được xác định rõ hơn về địa vị pháp lý và cách thức tổ chức hoạt động.

Về quyền tự do và bình đẳng trong kinh doanh, Đại hội lần thứ VII của Đảng (tháng 6 năm 1991) đã chỉ rõ: “Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo vệ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp." " Mọi đơn vị kinh tế, không phân biệt quan hệ sở hữu đều hoạt động theo cơ chế tự chủ kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh với nhau bình đẳng trước pháp luật"."Kinh tế tư bản tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm”. "Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, không phân biệt đối xử, không tước đoạt tài sản hợp pháp, không gò ép tập thể hoá tư liệu sản xuất, không áp đặt hình thức kinh doanh, khuyến khích các hoạt động có lợi cho quốc kế dân sinh".

Tuy nhiên, không lâu sau đó, động lực cải cách phát triển kinh tế tư nhân có biểu hiện trầm lắng trở lại. Cải cách doanh nghiệp nhà nước hầu như dẫm chân tại chỗ; cổ phần hoá được khởi xướng từ năm 1992 hầu như “bị bỏ quên”; trong khi đó, nỗ lực được tập trung vào thành lập hàng trăm tổng công ty tạo ra độc quyền hành chính, lợi ích cục bộ, hạn chế cạnh tranh.

Về chính sách và pháp luật, từ năm 1992 định hướng chính sách kinh tế hầu như không đề cập đến phát triển kinh tế tư nhân, trừ Luật khuyến khích đầu tư trong nước năm 1994[1]. Việc tháo bỏ các rào cản, giải quyết khó khăn tạo điều kiện thuận lợi về gia nhập thị trường, về thương quyền, về mặt bằng kinh doanh, về vốn tín dụng, về đào tạo lao động.v.v.. cho phát triển kinh tế tư nhân hầu như không được chú ý tới trong thời kỳ này. Trái lại, các văn bản pháp luật, nhất là nghị định, thông tư và quyết định của các bộ ban hành trong thời kỳ này thường đặt ra các giấy phép (phần lớn các giấy phép đã được bãi bỏ là những giấy phép được tạo ra trong thời kỳ này). Cơ chế xin-cho một cách phổ biến và nặng nề là đặc điểm nổi bật của thời kỳ này.

Giữa năm 1997 khủng hoảng kinh tế khu vực bất ngờ xảy ra; kinh tế khu vực bị suy giảm nghiêm trọng. Yêu cầu đẩy mạnh cải cách, gồm cả cải cách thúc đẩy phát triển doanh nghiệp tư nhân nổi lên và trở thành chương trình nghị sự trong các cơ quan lãnh đạo của Đảng và nhà nước. Quyền kinh doanh xuất nhập khẩu được mở rộng theo Nghị định số 87/1998/NĐ-CP; theo đó, những hạn chế đối với quyền trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu của doanh nghiệp tư nhân về cơ bản được xoá bỏ. Nghị quyết số 38/CP của Chính phủ ngày 4 tháng 5 năm 1994 về “cải cách một bước thủ tục hành chính trong việc giải quyết công việc của công dân và tổ chức” đã xác định “thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh” như một lĩnh vực ưu tiên cải cách. Đến năm 1998, một số cải cách đơn giản hoá thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh đã được thực hiện[2]. Doanh nghiệp tư nhân, một khu vực còn nhiều tiềm năng chưa được khai thác, đã được khuyến khích thêm một bước.

Điểm mốc thay đổi thứ ba bắt đầu hình thành. Đầu tiên là Nghị quyết trung ương 4 khoá VIII chủ trương phát huy tối đa và sử dụng có hiệu quả nguồn lực trong nước; tháo gỡ khó khăn tạo thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển. Tiếp đó, Hội nghị trung ương 6 (lần 1) khoá VIII đã nhấn mạnh việc hoàn thiện môi trường kinh doanh, hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng một hệ thống chung áp dụng cho các chủ thể kinh doanh không phân biệt các thành phần kinh tế.

Năm 2000 Luật Doanh nghiệp ra đời và đi vào cuộc sống. Luật doanh nghiệp về cơ bản đã thể chế và hiện thực hoá được quyền tự do lựa chọn loại hình doanh nghiệp, tự do thành lập doanh nghiệp, tự do tổ chức quản lý, tự do lựa chọn quy mô, địa bàn và ngành, nghề, trừ một số ngành, nghề bị cấm theo quy định của pháp luật. Điểm nổi bật ở đây là các quyền tự do nói trên được thể chế hoá; tạo được cơ chế để người dân thực sự được hưởng các quyền đó và thực hiện được các quyền đó.

Đổi mới tư duy về thành phần kinh tế, nhất là về ý nghĩa, vai trò và vị trí của doanh nghiệp tư nhân ở nước ta là một việc không dễ. Bởi vì, điều đó trái với ý thức hệ và tư duy truyền thống đang còn ảnh hưởng nặng đến việc thiết kế, định hình xu hướng phát triển và điều hành xã hội; nó diễn ra trong bối cảnh “chấp nhận cái này, thì cái kia không còn đúng”; và kéo theo đó là sự “chuyển giao” quyền lực từ nhóm người này sang nhóm người khác. Đổi mới tư duy và chuyển tư duy đó thành hành động thực tế ảnh hưởng đến toàn bộ, hay ít nhất một phần đáng kể cơ chế hiện hành, một phần không nhỏ những người trong đó bị mất hoặc bị giảm quyền lực và quyền lợi, có thể bị mất cả việc làm. Khó có ai tự giác làm điều đó, dù biết rằng thay đổi là có lợi cho phát triển xã hội, cho chấn hưng đất nước. Đó chính là nhân tố làm cho các biện pháp đổi mới, khuyến khích phát triển doanh nghiệp tư nhân luôn gặp khó khăn và lực cản.

Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định các thành phần kinh tế, gồm cả kinh tế tư nhân kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy vậy, doanh nghiệp tư nhân không thể là quan trọng nhất; bởi vì, kinh tế nhà nước phải là chủ đạo, và kinh tế nhà nước cùng với kinh tế hợp tác phải từng bước trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Toàn bộ hệ thống pháp luật, chính sách và cả bộ máy nhà nước phải được xây dựng và vận hành theo định hướng chính thống nói trên.

Giới doanh nhân hiểu rằng hoạt động kinh doanh của họ là cần thiết, là hữu ích và được ủng hộ chỉ trong phạm vi và quy mô chưa ảnh hưởng đến “sự chủ đạo” của doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy, một bộ phận doanh nhân kinh doanh trong tâm trạng “vừa làm vừa lo”; không để cho hoạt động kinh doanh của mình được coi là lớn; nếu đã lớn, thì chia ra, phân tán ra để thành nhỏ; hoặc che dấu vốn, doanh thu lợi nhuận.v.v...

Giới hoạch định chính sách và xây dựng luật pháp phải tìm cách hỗ trợ tối đa cho DNNN, và tiếp đến là HTX; và tìm thêm các “khoá”, “chốt” để phần nào ngăn cản phát triển của doanh nghiệp tư nhân. Vì vậy, chính sách và luật pháp thường không nhất quán; quy định mở sẽ có kèm với quy định đóng; văn bản này mở sẽ có văn bản khác đóng. Điều này thể hiện ngay cả trong Hiến pháp năm 1992 (bổ sung, sửa đổi)[3]. Giới thực thi chính sách, luật pháp tỏ thái độ ít nhất “không ưa, không thích” hoặc “không hồ hởi”, “giữ khoảng cách” với doanh nghiệp của tư nhân; đồng thời, tìm cách gây khó thêm cho doanh nghiệp.

Tóm lại, “nhất bên trọng, nhất bên khinh” như trình bày nói trên tạo ra môi trường khiến người dân chưa đó tất cả mọi người dù ở cương vị nào cũng không dám phát huy hết sức sáng tạo của mình để đạt được kết quả cao nhất như mong muốn, phục vụ tốt nhất cho phát triển xã hội. Một nền kinh tế như vậy không thể khai thác hết tiềm năng của nó để phát triển; hay nói cách khác nó luôn phát triển dưới mức tiềm năng. Thêm vào đó, nó còn tạo cơ hội và dư địa cho một số người ngăn cản sức sáng tạo, tư duy và công việc của người khác để trục lợi cá nhân. Riêng sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân luôn bị níu kéo, bị cản trở và hạn chế.

Do vậy, cần thay đổi tư duy và quan điểm “nhất bên trọng, nhất bên khinh”.Các loại hình doanh nghiệp khác nhau trong nền kinh tế có những điểm mạnh, yếu khác nhau, bổ sung cho nhau. Thị trường phát triển ngày càng cao và đa dạng, thì sự luân chuyển nguồn lực, hàng hoá các loại ngày càng hiệu quả và linh hoạt. Một doanh nghiệp hôm nay đang thuộc sở hữu nhà nước, thì ngày mai có thể chuyển sang sở hữu tư nhân; cũng tương tự, một nhà máy, hầm mỏ.v.v... hôm nay đang thuộc sở hữu tư nhân, thì ngày mai có thể chuyển sang sở hữu nhà nước. Xét trên bình diện quốc gia, thì doanh nghiệp, nhà máy hay hầm mỏ đó hoàn toàn không thay đổi; do đó, vai trò và ý nghĩa của nó đối với phát triển kinh tế nói chung là không đổi. Tóm lại, cần coi các doanh nghiệp có bản chất sở hữu khác nhau là bộ phận cấu thành của toàn bộ nền kinh tế, có địa vị pháp lý và xã hội, có quyền và nghĩa vụ ngang bằng nhau.

Mặt khác nên cân nhắc, soát xét lại việc sử dụng khái niệm “thành phần kinh tế” trong hoạch định chủ trương, chính sách và luật pháp. Đây có thể là chuyện câu, chữ, mà cũng có thể không chỉ thế. Còn phân biệt thành phần kinh tế dễ dẫn đến phân biệt đối xử trên quan điểm; và từ đó, phân biệt đối xử trong chính sách, luật pháp, nhất là, trong phương thức và tâm lý làm việc của bộ máy nhà nước. Các khái niệm “công bằng”, “bình đẳng”, “không phân biệt đối xử” thiếu sức sống thực tế.

Hai là, mở rộng tối đa, khuyến khích và hỗ trợ quyền kinh doanh của người dân. Xây dựng và áp dụng thống nhất một hệ thống luật pháp đối với tất cả các loại hình doanh nghiệp, không phân biệt nhà nước và tư nhân, không phân biệt trong nước và ngoài nước.Thực hiện công bằng và bình đẳng về quyền kinh doanh: giảm bớt một cách đích đáng các khu vực ở đó chỉ có doanh nghiệp nhà nước mới được quyền kinh doanh; xoá bỏ các hạn chế và tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp tư nhân thực hiện được quyền kinh doanh, mà lâu nay chưa thực hiện được (ví dụ quyền liên doanh với nhà đầu tư nước ngoài). Thực hiện công bằng và bình đẳng về quyền tài sản; xoá bỏ các hạn chế đối với doanh nghiệp tư nhân trong tiếp cận các quyền về tài sản mà hiện chỉ doanh nghiệp nhà nước mới có. Thực hiện công bằng và bình đẳng về chính sách, chế độ ưu đãi; xem xét và bãi bỏ hết các “bao cấp” hiện đang dành cho doanh nghiệp nhà nước;(trường hợp còn chế độ bao cấp theo mục tiêu, thì áp dụng chung cho các doanh nghiệp không phân biệt chế độ sở hữu).

Ba là, phải tin ở dân, ở chủ sở hữu và người quản lý doanh nghiệp tư nhân, ngay từ khâu xây dựng luật pháp. Nói cách khác, luật pháp phải được xây dựng trên nguyên tắc bảo vệ lợi ích của nhân dân và phải dựa trên niềm tin về tính trung thực, tự giác và sẵn sàng thực thi đúng pháp luật của người dân, của người chủ sở hữu và quản lý doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp của tư nhân; luật pháp phải được xây dựng và thực hiện theo nguyên tắc doanh nghiệp tuân thủ đúng luật pháp thì được luật pháp bảo hộ và được bảo đảm quyền lợi tốt hơn, nhiều hơn so với doanh nghiệp không tuân thủ đúng luật pháp. Trong điều kiện trình độ văn hoá và nhận thức pháp luật của người dân chưa cao, thì luật pháp càng phải đơn giản, rõ ràng và dễ hiểu, dễ thực hiện. Trường hợp có quy định pháp luật bị người dân bỏ qua, hoặc “lách qua”, thì phải xem xét và thay đổi nó theo đúng tâm lý và thói quen ứng xử hàng ngày của người dân về vấn đề đó; chứ không phải “bồi đắp” thêm quy định mới ép buộc người dân, hoặc ngăn chặn việc “lách luật” của người dân. Bởi vì, làm như vậy sẽ tạo ra hệ thống pháp luật ngày càng phức tạp, càng ít “thân thiện” với dân, càng xa rời cuộc sống thực tế, càng tốn kém và ít hiệu lực.

Bốn là, thực hiện nguyên tắc “Chính phủ nhỏ, xã hội lớn” trong quản lý nhà nước; giảm bớt quyền của cơ quan và công chức nhà nước từ trung ương đến địa phương, nhất là quyền “thẩm định”, “phê duyệt”, “chấp thuận”, quyền cho phép và cấp phép kinh doanh.v.v..Nhà nước, Chính phủ có vai trò rất quan trọng; ở những nước có nền kinh tế thị trường tự do nhất thế giới, người ta cũng đánh giá vai trò của nhà nước là “vô giá”, song đó là vai trò đúng đắn, với chức năng mới của nhà nước là phát huy thị trường và khắc phục có hiệu quả khuyết tật của thị trường. Đồng thời, phải “cá thể hoá” được trách nhiệm của công chức trong thi hành công vụ. Đối với công chức và cơ quan nhà nước, pháp luật phải quy định không chỉ họ được “làm gì”, “làm ở đâu”, mà cả làm “như thế nào”; đồng thời, phải có thể chế thường xuyên giám sát và đánh giá công việc của họ.

Hợp tác xã

Có thể nói, những nỗ lực hợp tác hoá, tập thể hoá sau năm 1975 đã không đem lại kết quả mong muốn. Cơ chế “khoán 10” về cơ bản đã thay đổi nguyên tắc “hợp tác xã” theo kiểu cũ; nói đúng hơn, hợp tác xã theo kiểu cũ bị xoá bỏ. Cùng với việc được giao đất với năm quyền sử dụng lâu dài, hộ gia đình, trước hết là hộ gia đình nông dân, được xác lập và thực sự đã trở thành đơn vị kinh tế tự chủ, tách biệt về kinh tế và pháp lý khỏi hợp tác xã truyền thống. Từ năm 1988, hộ gia đình nông dân đã tự mình quyết định sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu, sản xuất như thế nào, bán cho ai và tự quyết định cả giá bán. Địa vị nói trên của hộ gia đình không chỉ là kết quả của các biện pháp đổi mới kinh tế hợp tác, chế độ quản lý đất đai, mà cả các biện pháp cải cách vĩ mô như về giá cả, về thị trường.v.v.. Kết quả đạt được thật ngoạn mục, ngoài sự mong đợi, nhất là trên lĩnh vực sản xuất lương thực. Kể từ thời điểm đó, vấn đề “ăn” từ lâu luôn là mối lo toan của cả bộ máy nhà nước, kể cả của các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước trong mấy chục năm dưới cơ chế kế hoạch hoá tập trung, đã được giải quyết.

Năm 1996, nhằm đổi mới hợp tác xã, Quốc hội đã ban hành Luật hợp tác xã. Ngoài việc quy định thành lập, tổ chức quản lý, hoạt động của HTX, Luật còn đề ra hàng loạt các ưu đãi dành riêng cho HTX các loại. Luật HTX là khung pháp lý tạo điều kiện vừa để thành lập các HTX mới, vừa để chuyển đổi HTX trước đây sang tổ chức quản lý và hoạt động theo mô hình HTX kiểu mới. Thời hạn chuyển đổi dự kiến kết thúc vào cuối năm 1998; nhưng cho đến nay, vẫn còn hàng nghìn hợp tác xã chưa chuyển đổi được.

Sau hơn 5 năm thực hiện Luật HTX, tổng số hợp tác xã trên cả nước đã giảm không nhiều từ 11330 xuống còn 10311; trong đó, chỉ có gần 2700 hợp tác xã mới thành lập. Như vậy, mỗi năm trung bình có 540 hợp tác xã mới được thành lập. Tuy vậy, có sự thay đổi đáng kề về cơ cấu ngành, nghề trong số hợp tác xã mới thành lập. Cụ thể là, HTX nông nghiệp chiếm khoảng 31%, công nghiệp chiếm 23,6%, thuỷ sản 12,7%, giao thông vận tải 11%, xây dựng 9%, thương mại chưa đầy 3%.

Quy mô của HTX còn rất nhỏ. Bình quân vốn hoạt động của mỗi HTX chỉ khoảng 758 triệu đồng với số xã viên bình quân 787 xã viên; và 197 lao động làm thuê/HTX. Như vậy, bình quân mỗi xã viên đóng góp chưa đầy 1 triệu đồng; và mỗi chỗ làm việc chỉ có gần 4 triệu đồng[4].

HTX cũng chưa thực hiện tốt chức năng dịch vụ đầu vào, đầu ra như mong muốn của những người thiết kế chính sách. Thực vậy, chính lực lượng tư thương, buôn bán nhỏ (chứ không phải HTX) đã tiêu thụ đại bộ phận sản phẩm cho nông dân; và cũng chính họ đã làm tốt hơn chức năng cung cấp dịch vụ, phân bón, các loại nguyên liệu khác cho các hộ nông dân. Nói cách khác, sự hợp tác giữa hộ xã viên và tư thương chặt chẽ và hiệu quả hơn so với xã viên và HTX.

Thực tế phát triển kinh tế nói chung và hợp tác xã nói riêng trong mấy năm qua chứng tỏ Luật HTX cùng các chính sách phát triển kinh tế hợp tác chưa phát huy được tác dụng như mong muốn. Trong khi số lượng HTX, nhất là HTX dịch vụ nông nghiệp giảm xuống, thì số lượng và quy mô (về vốn, lao động) của trang trại tăng lên rất nhanh trên nhiều vùng trong cả nước. (Điều đó đã xảy ra trong khi hầu như chưa có chính sách hỗ trợ trực tiếp cho kinh tế trang trại). Ngay cả khi thủ tục thành lập hết sức phức tạp, tốn kém với những cản trở và đối xử bất bình đẳng trên nhiều mặt(thời kỳ 1991-1999), thì số lượng doanh nghiệp tư nhân mới được thành lập hàng năm gấp gần 10 lần số HTX mới thành lập. (Hiện nay số doanh nghiệp mới thành lập gấp 30-40 lần so với số HTX; quy mô vốn bình quân của doanh nghiệp mới thành lập lớn gấp 3-4 lần so với HTX).

HTX thực sự chưa phải là con đường xoá đói, giảm nghèo và góp phần giải quyết các vấn đề xã hội khác. Thu nhập bình quân/người lao động (gồm cả xã viên và lao động làm thuê) khoảng từ 2 - 2,8 triệu đồng /năm; chỉ bằng khoảng 20% mức thu nhập bình quân của người lao động phổ thông làm việc trong các doanh nghiệp của tư nhân.

Nhiều thập kỷ trong cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp, hợp tác xã đã bị “hành chính hoá”, bị coi là “sân sau”, là “bàn tay nối dài” của cấp chính quyền; làm mất đi “tính hấp dẫn”, “lôi cuốn” của hợp tác xã đối với xã viên nói riêng và từng người dân nói chung. Tâm lý xã hội khá phổ biến coi tài sản chung là “của chùa”, không quan tâm xây dựng nó, phát triển nó, mà tìm cách chiếm nó thành của riêng.

Cũng như loại hình kinh doanh khác, hợp tác xã có những điểm lợi và bất lợi riêng của nó. Bản chất của hợp tác xã nhấn mạnh đến “sự bình đẳng” của từng xã viên không phân biệt đóng góp thực tế của họ; không chú trọng nhiều đến mối quan hệ thuận giữa đóng góp và lợi ích được hưởng. Vì vậy, HTX chưa phải là mô hình phù hợp khuyến khích lợi ích cá nhân, lấy lợi ích cá nhân làm động lực trực tiếp nhất để phát triển. Hợp tác xã có thể phù hợp với các hoạt động kinh tế đã “chuẩn hoá”, độ rủi ro thấp. Mức độ phát triển kinh tế hiện nay chưa tạo ra nhu cầu xã hội đủ để HTX hoạt động có hiệu quả đúng với nguyên tắc của nó.

Trong hơn 17 năm qua, hợp tác xã đã và đang chuyển đổi cùng với sự chuyển đổi chung sang cơ chế thị trường của cả nền kinh tế. Để định hướng cho việc tiếp tục chuyển đổi, cần xem xét và tính đến một số điểm sau đây.

Một là, cần phải làm rõ và thống nhất về vai trò và địa vị pháp lý của hợp tác xã trong nền kinh tế. Trước hết, hợp tác xã phải được khẳng định là một trong nhiều loại hình doanh nghiệp, một trong nhiều hình thức tổ chức kinh doanh của kinh tế thị trường, với những đặc điểm, lợi và bất lợi của nó. Theo nhận thức và thực tiễn phổ biến trên thế giới, thì hợp tác xã thuộc sở hữu tư nhân, của những xã viên; từng phần, lớn hay nhỏ của từng xã viên đều rõ ràng. ở nước ta, thực chất của hợp tác xã là gì, tuỳ thuộc vào quan niệm về hợp tác xã; ở mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của hợp tác xã, đặc biệt là mức độ tập thể hoá các tư liệu sản xuất. Đó là vấn đề cần làm rõ. Dẫu sao, hợp tác xã, cũng như các loại hình doanh nghiệp khác, tồn tại tách biệt không chỉ với các pháp nhân khác, mà còn tách biệt với các cấp chính quyền.

Hai là, với bản chất của mình, hợp tác xã nhấn mạnh mục tiêu phục vụ trực tiếp nhu cầu của xã viên, hỗ trợ lẫn nhau và quản lý dân chủ theo nguyên tắc đầu phiếu, không tính đến phần đóng góp cụ thể của từng xã viên. Nhưng điều đó không có nghĩa là hợp tác xã nhất thiết là loại hình doanh nghiệp tốt hơn loại hình doanh nghiệp khác, hay chế độ quản lý của hợp tác xã là tiến bộ hơn so với chế độ quản lý theo tỷ lệ góp vốn.v.v.. Xét về nhu cầu xây dựng và phát triển kinh tế nói chung, thì các loại hình doanh nghiệp đều hữu ích, mỗi loại hình doanh nghiệp có vai trò và tác dụng đích đáng của mình.

Ba là, trong xây dựng và thực thi luật pháp, chính sách về hợp tác xã cũng phải bảo đảm sự bình đẳng, nghĩa là không dành ưu đãi riêng biệt(nhiều hơn hoặc ít hơn trên tất cả các mặt:chính trị, tinh thần, kinh tế và xã hội) cho hợp tác xã, cho xã viên và những người làm việc trong hợp tác xã; đồng thời hợp tác xã cũng như loại hình doanh nghiệp khác không bị các cấp chính quyền “công cụ hoá” thành bộ phận của chính quyền và thực hiện chức năng của cấp chính quyền. Trường hợp có yêu cầu trợ giúp hợp tác xã, thì đặt nó trong chương trình trợ giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa. Hợp tác xã cần được đối xử công bằng, bình đẳng và phải cạnh tranh để tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường. Hiệu quả và năng lực cạnh tranh vẫn là yếu tố quyết định thành/bại của hợp tác xã.

Bốn là, trong xây dựng pháp luật về hợp tác xã, cần phải đa dạng hoá loại hình hợp tác xã; đồng thời, áp dụng linh hoạt và có chọn lọc các nguyên tắc cơ bản của hợp tác xã phù hợp với điều kiện cụ thể về kinh tế, chính trị, xã hội, lịch sử của nước ta. Cũng như ở hầu hết các nước khác, không phải các nguyên tắc cơ bản của hợp tác xã đều phải được áp dụng nguyên vẹn và không thay đổi. “Dân chủ” trong quản lý hợp tác xã không nhất thiết phải là “mỗi xã viên, một phiếu bầu” không tính đến đóng góp cổ phần của xã viên; “công bằng” không nhất thiết là phải có giới hạn tối đa số vốn góp của từng xã viên và phân chia lợi ích đồng đều giữa các xã viên mà không tính đến mức độ góp vốn và những đóng góp khác của họ. Như các loại hình doanh nghiệp khác, hợp tác xã không nhất thiết phải bó hẹp trong địa bàn dân cư và vùng lãnh thổ. Kinh nghiệm ở các nước khác cho thấy áp dụng linh hoạt các nguyên tắc của hợp tác xã làm đa đạng hoá loại hình hợp tác xã, tạo thêm dư địa và động lực cho hợp tác xã phát triển, cạnh tranh được với các loại hình doanh nghiệp khác. Trên thực tế nguyên tắc tổ chức, hoạt động và quản lý của không ít hợp tác xã ở nước ta hiện nay đã có thay đổi, tách biệt nhất định với nguyên tắc truyền thống của hợp tác xã, và đạt kết quả tốt, hấp dẫn được xã viên và cả nhiều người còn đang ở ngoài hợp tác xã. Đó là những điểm sáng cần được tổng kết và nhân rộng.

Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

Để thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài, từ tháng 12 năm 1987, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã được Quốc hội thông qua, tiếp đó, tháng 11 năm 1996 và tháng 6 năm 2000, Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Nhiều văn bản pháp quy đã được ban hành để hướng dẫn thi hành Luật.

Từ năm 1987 đến nay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (dưới đây viết tắt là ĐTNN) phát triển khá nhanh, bao quát nhiều lĩnh vực, đã có những đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước như : bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển; phục vụ chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; thu hút công nghệ hiện đại, phương pháp quản lý tiên tiến; phát triển nguồn nhân lực; góp phần tiếp cận và mở rộng thị trường quốc tế, nâng cao năng lực xuất khẩu của nước ta; v.v...

ĐTNN đã chiếm một tỷ lệ quan trọng trong tổng sản phẩm trong nước (theo giá thực tế): năm 1995 mới có 6,30%, năm 2000 đã là 13,28%, năm 2001 là 13,76%, năm 2002 là 13,91%. Trong tổng số vốn đầu tư phát triển (theo giá thực tế), ĐTNN chiếm: năm 1995 là 30%, năm 2000 là 18,7%, năm 2001 là 18,4%, năm 2002 là 18,5%. Năm 2002, nếu tính cả dầu thô, xuất khẩu của khu vực ĐTNN đạt khoảng 7,5 tỉ USD, chiếm trên 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.

Để thu hút nhiều hơn và nâng cao hiệu quả ĐTNN, phải tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, mà trước hết là thống nhất cao hơn nữa về nhận thức, giảm mạnh đi đến xóa bỏ những phân biệt về chính sách và pháp luật giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Những nhận thức chưa thống nhất ở các cấp, các ngành đã dẫn đến sự khác nhau trong khi xử lý các vấn đề cụ thể, khiến cho nhà đầu tư nước ngoài chưa thật yên tâm khi bỏ vốn đầu tư.

Để đẩy mạnh thu hút ĐTNN, một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là xây dựng chiến lược và nâng cao chất lượng quy hoạch thu hút ĐTNN theo hướng ĐTNN cùng với đầu tư trong nước trở thành một cơ cấu hiệu quả và bền vững. Rất cần thiết hoàn thiện quy hoạch tổng thể cũng như quy hoạch ngành, quy hoạch vùng kinh tế, thu hút mạnh hơn nữa FDI vào các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp chế biến, các ngành công nghệ cao, vật liệu mới, điện tử, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội và các ngành nước ta có lợi thế, gắn với công nghiệp hiện đại và tạo việc làm.

Xét về địa bàn, đang có sự mất cân đối lớn trong ĐTNN giữa các địa phương. Từ năm 2001 đến nay, 86,7% tổng số dự án và tổng vốn đầu tư tập trung vào hai vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và Nam Bộ, riêng vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ đã chiếm khoảng 69% tổng số dự án và 71% tổng vốn đầu tư đăng ký. Chỉ riêng 10 địa phương dẫn đầu là Bà Rịa-Vũng Tàu, TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Long An, Hà Nội, Vĩnh Phúc, Hải Phòng, Phú Yên và Quảng Ninh đã chiếm 80% số dự án và hơn 85% vốn đầu tư đăng ký. Nhiều tỉnh kết quả thu hút ĐTNN hầu như không đáng kể. Do vậy, rất cần sự nỗ lực hơn nữa của chính quyền địa phương trong việc kêu gọi đầu tư.

Cùng với công tác quy hoạch, việc rà soát lại danh mục các dự án kêu gọi đầu tư, kể cả các dự án quốc gia và dự án do các địa phương dự kiến là rất cần thiết. Trong thực tế, danh mục các dự án quốc gia gọi vốn đầu tư thời kỳ 2001-2005 tuy đã ban hành nhưng những dự án trọng điểm nhất vẫn chưa được nhà đầu tư quan tâm, nay cần rà soát lại danh mục dự án để điều chỉnh, bổ sung, nhất là cần hoàn chỉnh nghiên cứu tiền khả thi với các thông số kinh tế- kỹ thuật cần thiết để tạo điều kiện cho việc tuyên truyền, vận động đầu tư. Nhiều dự án mời gọi đầu tư do các địa phương đề ra vẫn chỉ trên ước mong chủ quan của địa phương, chưa tính đến yêu cầu của thị trường, nhất là thị trường khu vực, những biến động của thị trường cũng như những biện pháp mà các nước trong khu vực đã và đang áp dụng để cạnh tranh với ta, ngay trong từng ngành, nghề, lĩnh vực, từng loại hình doanh nghiệp cụ thể.

Để thu hút ĐTNN, những năm gần đây, Nhà nước ta đã tiếp tục bổ sung những chính sách lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho ĐTNN, đối xử công bằng và thoả đáng; không đánh thuế trùng; vốn và tài sản của nhà ĐTNN không bị trưng thu bằng biện pháp hành chính và không bị quốc hữu hoá; được tự do lựa chọn quy mô, địa bàn, hình thức đầu tư, đối tác; chuyển lợi nhuận, vốn và các tài sản hợp pháp ra nước ngoài; giải quyết tranh chấp tại tổ chức trọng tài hoặc của toà án Việt Nam hoặc của các tổ chức quốc tế; miễn thuế nhập khẩu đối với vật tư, máy móc, thiết bị, phụ tùng nhập khẩu để hình thành công ty, v.v...

Các nhà đầu tư nước ngoài hoan nghênh những chính sách cởi mở của Đảng và Nhà nước ta, ghi nhận những chuyển biến rõ rệt trong nhiều lĩnh vực, nhưng còn cho rằng Việt Nam là nơi có độ rủi ro cao, do thể chế, chính sách hay thay đổi và thủ tục hành chính quá rườm rà, tốn kém. Cách nhìn về ưu thế thu hút đầu tư ngày nay đã thay đổi: ưu thế đó không còn là giá nhân công rẻ, thị trường nội địa lớn, vùng nguyên liệu sẵn hay giá đất hạ, mà là một chính sách nhất quán và được thực thi nghiêm túc từ trên xuống dưới. Tuy môi trường đầu tư đã có mức cải thiện, song vẫn chưa đủ hấp dẫn bằng một số nước ASEAN và Trung Quốc; do đó, lượng vốn đầu tư vào Việt Nam vẫn còn quá nhỏ bé. Rõ ràng là không thể không tập trung sức khắc phục tình trạng này, trước hết là hoàn thiện hệ thống thể chế. Việc tổ chức hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn còn nhiều điểm khác biệt so với doanh nghiệp trong nước và thông lệ quốc tế. Do vậy cần sớm thực hiện chủ trương hướng tới một mặt bằng pháp lý cho mọi loại hình doanh nghiệp, trước hết là thực hiện những cam kết đã được quy định trong Hiệp định thương mại Việt- Mỹ.

Cần đổi mới mạnh hơn nữa chính sách thu hút ĐTNN, khắc phục tình trạng thể chế không rõ ràng, thiếu minh bạch, không dự đoán được, gây cho nhà đầu tư nước ngoài tâm lý lo ngại vì môi trường đầu tư không ổn định, còn nhiều rủi ro. Trong Luật Đầu tư nước ngoài, vẫn còn hạn chế ĐTNN đầu tư vào các lĩnh vực như nhập khẩu, dịch vụ vận tải nội đia, tài chính - ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, quảng cáo, v.v... Các lĩnh vực trên, nếu được mở ra một cách thoả đáng, sẽ tăng thêm tính hấp dẫn của thị trường đầu tư nước ta. Danh mục những lĩnh vực được phép đầu tư 100% vốn nước ngoài và danh mục hạn chế nước ngoài đầu tư cần được xác định và công bố công khai.

Cần đa dạng hoá các hình thức đầu tư nươc ngoài, cho các doanh nghiệp ĐTNN đủ điều kiện chuyển sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần, được niêm yết trên thị trường chứng khoán.

Một số các quy định khác cũng cần được nghiên cứu, sửa đổi, ví dụ: quy định bắt buộc về tỷ lệ nội địa hoá trong một số ngành công nghiệp; chế độ xin phép nhập khẩu theo kế hoạch đối với linh kiện, phụ tùng và nguyên vật liệu; việc tuyển dụng, sử dụng lao động, giải tranh chấp về lao động; tạo mặt bằng cho sản xuất kinh doanh; vấn đề cho thuê lại, thế chấp hoặc dùng đất thuê đó để góp vốn đầu tư; việc thực thi các luật thuế và các chính sách khuyến khích và bảo hộ đầu tư khác...

Tóm lại, thu hút ĐTNN là một chính sách lớn nhằm đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong thực tế, ĐTNN đã trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng trong nền kinh tế, phát huy tác dụng trên nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội. Hiện nay, nhiều nước xung quanh ta đang đề ra những chính sách có sức cạnh tranh cao để thu hút đầu tư, nhà đầu tư nước ngoài thường so sánh môi trường đầu tư nước ngoài của từng nước tương quan với môi trường đầu tư trong nước, từ đó quyết định đầu tư. Vì vậy, để tiếp tục thu hút và nâng cao hiệu quả của ĐTNN, không thể không xem xét lại hệ thống các thể chế, chính sách, nhất là so sánh với môi trường đầu tư của các nước trong khu vực để đề ra những chính sách hấp dẫn, tạo lập một môi trường đầu tư có tính cạnh tranh cao; chỉ có như vậy, mới có thể tiếp tục thu hút ĐTNN, bảo đảm yêu cầu của công cuộc phát triển kinh tế, xã hội./.





[1] Luật khuyến khích đầu tư trong nước được thông qua một phần quan trọng do yêu cầu chính trị về tạo “bình đẳng” giữa đầu tư trong nước, mà chủ yếu là đầu tư của doanh nghiệp nhà nước với đầutư trực tiếp nước ngoài.

[2] Thông tư số 05/1998/TTLT-KH&ĐT ngày 10 tháng 7năm 1998 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ tư pháp hướng dẫn thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh đối với doanh nghiệp tư nhân, công ty..

[3] Điều 16 và Điều 21 Hiến pháp năm 1992(Bổ sung, sửa đổi) có nội dung chưa hoàn toàn thống nhất..

[4] Báo cáo điều tra năm 2003 của Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương.

---------------------------------------------


source: http://www.ciem.org.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét