Thứ Tư, 9 tháng 1, 2008

CHẾ ĐỊNH PHÚC THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ

 

ThS. Nguyễn Thị Thu Hà - Giảng viên khoa Luật dân sự - Đại học Luật Hà Nội


Trong Bộ luật tố tụng dân sự, chế định phúc thẩm dân sự được quy định tại Phần thứ ba gồm 3 chương (từ Chương XV đến Chương XVII), 39 điều luật (từ Điều 242 đến Điều 281). Có thể nói, các quy định trong BLTTDS về thủ tục phúc thẩm dân sự đã được kế thừa từ Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động. Tuy nhiên, các quy định này đã có sự sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng như công cuộc cải cách hành chính, cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta. Những sửa đổi, bổ sung cơ bản về thủ tục phúc thẩm dân sự trong BLTTDS gồm những vấn đề cơ bản sau đây:

1. Về tính chất của xét xử phúc thẩm

Từ trước đến nay hệ thống toà án của chúng ta vẫn thực hiện theo chế độ hai cấp xét xử tuy nhiên đến năm 2002 mới được ghi nhận trong Luật tổ chức toà án nhân dân năm 2002. Hiện nay, tại Điều 242 BLTTDS khẳng định xét xử phúc thẩm là việc toà án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của toà án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Việc BLTTDS quy định về tính chất của xét xử phúc thẩm nhằm khẳng định phúc thẩm là một cấp xét xử và là cấp xét xử thứ hai, được tiến hành sau thủ tục sơ thẩm.

2. Kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm

- Về người có quyền kháng nghị

Trước đây, Điều 58 PLTTGQCVADS, Điều 60 PLTTGQCTCLĐ chỉ quy định viện kiểm sát cùng cấp hoặc trên một cấp có quyền kháng nghị bản án, quyết định sơ thẩm mà không nói cụ thể ai là người có quyền kháng nghị. Việc quy định như vậy dẫn đến đùn đẩy trách nhiệm trong việc thực hiện kháng nghị cũng như việc chịu trách nhiệm pháp lý trước quyết định kháng nghị của mình. Để giải quyết vấn đề này, Điều 250 BLTTDS đã quy định viện trưởng viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật để yêu cầu Toà án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm.

- Về đơn kháng cáo, quyết định kháng nghị

Điều 58 PLTTGQCVADS, Điều 60 PLTTGQCTCLĐ, Điều 60 PLTTGQCTCKT chỉ quy định người kháng cáo phải làm đơn kháng cáo, viện kiểm sát kháng nghị bằng văn bản trong đó nêu rõ nội dung phần bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị, lý do và yêu cầu kháng cáo, kháng nghị. Hiện nay, các điều 244, 251 BLTTDS quy định cụ thể về nội dung đơn kháng cáo, quyết định kháng nghị. Đồng thời người kháng cáo, kháng nghị gửi kèm theo đơn kháng cáo, quyết định kháng nghị là tài liệu, chứng cứ bổ sung, nếu có để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo, yêu cầu kháng nghị của viện kiểm sát là có căn cứ và hợp pháp. Đây là quy định hoàn toàn mới có ý nghĩa buộc người kháng cáo, kháng nghị phải thực hiện nghĩa chứng minh trong trường hợp họ kháng cáo bản án, quyết định của toà án.

Ngoài ra, Điều 246 BLTTDS còn quy định trách nhiệm của toà án cấp sơ thẩm khi nhận được đơn kháng cáo. Nếu đơn kháng cáo không có đầy đủ nội dung theo quy định của BLTTDS thì toà án cấp sơ thẩm yêu cầu người kháng cáo sửa đổi, bổ sung đơn kháng cáo. Trong trường hợp đơn kháng cáo quá hạn thì toà án cấp sơ thẩm yêu cầu người kháng cáo trình bày rõ lý do và xuất trình tài liệu, chứng cứ, nếu có để chứng minh cho lý do nộp đơn kháng cáo quá hạn là chính đáng. Quy định mới này của BLTTDS bảo đảm cho đương sự và những người có quyền kháng cáo có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước toà án đồng thời tạo điều kiện cho toà án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án một cách nhanh chóng và chính xác.

- Về thời hạn kháng cáo, kháng nghị

Điều 59 PLTTGQCVADS, Điều 61 PLTTGQCTCLĐ, Điều 61 PLTTGQCVAKT đều quy định thời hạn kháng cáo, kháng nghị đối với bản án và quyết định của toà án cấp sơ thẩm là giống nhau theo đó thời hạn kháng cáo đối với bản án, quyết định của toà án cấp sơ thẩm là 15 ngày, thời hạn kháng nghị của viện kiểm sát cùng cấp đối với bản án, quyết định của toà án cấp sơ thẩm là 15 ngày, của viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 30 ngày. Nay các điều 245, 252 BLTTDS quy định thời hạn kháng cáo, kháng nghị đối với bản án của toà án cấp sơ thẩm và quyết định của toà án cấp sơ thẩm là khác nhau, trong đó giữ nguyên thời hạn kháng cáo, kháng nghị đối với bản án của toà án cấp sơ thẩm nhưng rút ngắn thời hạn kháng cáo, kháng nghị đối với quyết định của toà án cấp sơ thẩm. Việc BLTTDS quy định thời hạn kháng cáo, kháng nghị như vậy là hoàn toàn hợp lý, người kháng cáo, viện kiểm sát có đủ thời gian cần thiết để suy nghĩ và quyết định xem mình có nên kháng cáo, kháng nghị hay không đồng thời khắc phục tình trạng kéo dài thời hạn giải quyết vụ án. Ngoài ra, BLTTDS còn quy định các trường hợp khác nhau để xác định thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Nếu đương sự, viện kiểm sát có mặt tại phiên toà sơ thẩm thì thời hạn kháng cáo, kháng nghị tính từ ngày tuyên án, nếu đương sự, viện kiểm sát không có mặt tại phiên toà thì thời hạn tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết hoặc ngày viện kiểm sát cùng cấp nhận được bản án.

Ngoài ra, khác với các quy định của các văn bản pháp luật đã ban hành trước đây, BLTTDS không quy định kháng nghị quá hạn của viện kiểm sát cũng như không ấn định thời hạn cụ thể kháng cáo, kháng nghị quá hạn. Theo Điều 247 BLTTDS kháng cáo quá hạn là kháng cáo quá thời hạn luật quy định. Và để xem xét kháng cáo quá hạn đó có được chấp nhận hay không BLTTDS còn quy định cụ thể, chi tiết về trình tự, thủ tục xét đơn kháng cáo quá hạn, đó là sau khi nhận được đơn kháng cáo quá hạn, toà án cấp sơ thẩm phải gửi đơn kháng cáo, bản tường trình của người kháng cáo về lý do kháng cáo quá hạn và tài liệu, chứng cứ, nếu có cho toà án cấp phúc thẩm. Trong thời hạn mười ngày kể từ ngày nhận được đơn kháng cáo quá hạn và tài liệu, chứng cứ kèm theo toà án cấp phúc thẩm thành lập hội đồng gồm ba thẩm phán để xem xét kháng cáo quá hạn. Hội đồng có quyền ra quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn và phải ghi rõ lý do của việc chấp nhận hoặc không chấp nhận trong quyết định. Toà án cấp phúc thẩm phải gửi quyết định cho người kháng cáo quá hạn và toà án cấp sơ thẩm; nếu toà án cấp phúc thẩm chấp nhận việc kháng cáo quá hạn thì toà án cấp sơ thẩm phải tiến hành các thủ tục theo quy định của pháp luật và gửi hồ sơ vụ án cho toà án cấp phúc thẩm. Tuy nhiên, BLTTDS chưa quy định cụ thể cách thức làm việc của hội đồng xét xử khi tiến hành xem xét đơn kháng cáo quá hạn đó là toà án cấp phúc thẩm phải mở phiên toà hay không phải mở phiên toà để xét đơn kháng cáo quá hạn. Theo chúng tôi, để tránh sự tuỳ tiện trong áp dụng cũng như có khả năng khắc phục nhanh nhất những sai lầm có thể xẩy ra thủ tục này nên quy định theo hướng toà án cấp phúc thẩm không phải mở phiên toà, hội đồng xem xét lý do của việc kháng cáo, kháng nghị quá hạn và sau đó ra quyết định.

- Về thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị

Trước đây, Điều 60 PLTTGQCVADS quy định trước hoặc tại phiên toà phúc thẩm người kháng cáo có quyền sửa đổi nội dung kháng cáo, viện kiểm sát có quyền sửa đổi nội dung kháng nghị. Tuy nhiên, Điều 256 BLTTDS đã quy định chặt chẽ hơn đó là việc thay đổi, bổ sung kháng cáo, kháng nghị không được vượt quá phạm vi kháng cáo, kháng nghị ban đầu, nếu thời hạn kháng cáo, kháng nghị đã hết. Việc quy định như vậy nhằm mục đích để các đương sự có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình đồng thời thực hiện nghĩa vụ đối với đối phương để họ chuẩn bị tổ chức việc biện hộ sau khi đã biết rõ thực trạng những nội dung kháng cáo, kháng nghị. Tuy nhiên, như thế nào là không vượt quá phạm vi kháng cáo, kháng nghị ban đầu? Phải chăng không vượt quá phạm vi kháng cáo, kháng nghị ban đầu được hiểu là không vượt ra ngoài các nội dung cụ thể và trong mỗi nội dung cụ thể không vượt quá mức độ, quy mô đã được đặt ra ban đầu của yêu cầu kháng cáo, kháng nghị? Và khi đã tiến hành xét xử phúc thẩm thì lúc đó đương nhiên là đã hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị nên việc BLTTDS quy định tại phiên toà phúc thẩm việc thay đổi, bổ sung kháng cáo, kháng nghị không được vượt quá phạm vi kháng cáo, kháng nghị ban đầu, nếu thời hạn kháng cáo, kháng nghị đã hết được hiểu như thế nào?. Chúng tôi thiết nghĩ để áp dụng thống nhất quy định này cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần phải có hướng dẫn cụ thể.

Theo Nghị quyết số 03/ HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành PLTTGQCVADS (NQ 03/HĐTP) khi người kháng cáo rút kháng cáo, viện kiểm sát rút kháng nghị thì toà án cấp phúc thẩm ra quyết định chấp nhận việc rút kháng cáo, kháng nghị. Tuy nhiên, việc ra quyết định này không thể hiện được là sau khi toà án cấp phúc thẩm chấp nhận cho rút kháng cáo, kháng nghị thì toà án cấp phúc thẩm có tiếp tục xét xử nữa hay không cũng như bản án, quyết định sơ thẩm trong trong trường hợp này có hay không có hiệu lực pháp luật. Để giải quyết những vướng mắc này, BLTTDS đã quy định toà án cấp phúc thẩm sẽ ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với những phần của vụ án mà người kháng cáo đã rút kháng cáo hoặc viện kiểm sát đã rút kháng nghị. Khi người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo, viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị thì toà án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xử phúc thẩm và bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật từ ngày toà án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm (Điều 256, 260).

3. Về chuẩn bị xét xử phúc thẩm

Các văn bản pháp luật tố tụng trước đây không có quy định về việc thụ lý vụ án để xét xử phúc thẩm, tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm, đình chỉ xét xử phúc thẩm. Việc không quy định những vấn đề này đã gây khó khăn cho toà án cấp phúc thẩm khi xác định thời hạn xét xử phúc thẩm cũng như trên thực tế có những trường hợp mà toà án cấp phúc thẩm không thể tiếp tục xét xử phúc thẩm hoặc không còn đối tượng để xét xử phúc thẩm nhưng không thể ra quyết định gì vì không có căn cứ pháp lý. Tuy nhiên, những vấn đề này đã được quy định trong BLTTDS. Cụ thể:

- Toà án cấp phúc thẩm vào sổ thụ lý vụ án ngay sau khi nhận được hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị và tài liệu chứng cứ kèm theo (Điều 257).

- Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm khi có căn cứ đương sự là cá nhân đã chết, cơ quan, tổ chức đã sáp nhập, chia, tách, giải thể mà chưa có cá nhân, cơ quan, tổ chức kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cá nhân, cơ quan, tổ chức đó; một bên đương sự là cá nhân mất năng lực hành vi dân sự mà chưa xác định được người đại diện theo pháp luật; chấm dứt đại diện hợp pháp của đương sự mà chưa có người thay thế; cần đợi kết quả giải quyết vụ án khác có liên quan hoặc sự việc được pháp luật quy định là phải do cơ quan, tổ chức khác giải quyết trước mới giải quyết được vụ án; các trường hợp khác mà pháp luật có quy định. Bên cạnh đó, BLTTDS cũng quy định thẩm quyền, thủ tục và hậu quả pháp lý của việc tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm cũng được thực hiện như giai đoạn sơ thẩm (Điều 259).

- Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm khi có căn cứ nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế; cơ quan, tổ chức đã bị giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản mà không có cá nhân, cơ quan, tổ chức nào kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó; người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo hoặc viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị; các trường hợp khác mà pháp luật có quy định. Trong trường hợp toà án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án khi người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo hoặc viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị thì bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật từ ngày toà án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm (Điều 260).

- Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án khi nguyên đơn rút đơn khởi kiện và bị đơn đồng ý việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn. Trong trường hợp này toà án cấp phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm. (Điều 269).

Trước đây, theo hướng đẫn của NQ 03/HĐTP, trước khi xét xử phúc thẩm toà án cũng tiến hành hòa giải và nếu các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì thủ tục ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự giống như ở sơ thẩm. Tuy nhiên, theo Điều 258 BLTTDS trong thời hạn hai tháng kể từ ngày thụ lý vụ án, tuỳ từng trường hợp, toà án cấp phúc thẩm ra một trong các quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án, đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hoặc đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm. Như vậy, khác với các quy định trong các văn bản pháp luật tố tụng trước đây, trước khi mở phiên toà phúc thẩm nếu các đương sự có hoà giải thành thì toà án cũng không ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự. Vậy trong trường hợp này toà án cấp phúc thẩm giải quyết như thế nào? Phải chăng thẩm phán phụ trách việc giải quyết vụ án chỉ lập biên bản hòa giải thành sau đó mở phiên toà và hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm, công nhận sự thoả thuận của các đương sự như hướng dẫn tại Công văn số 81/KHXX ngày 10/6/2002 của Toà án nhân dân tối cao. Chúng tôi cho rằng trước khi xét xử phúc thẩm nếu các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì toà án không cần phải mở phiên toà vì khi các đương sự đã đạt được sự thống nhất chung về các vấn đề giải quyết trong vụ án thì thẩm phán phải công nhận sự thoả thuận đó và sự thoả thuận của họ đã đương nhiên phủ nhận giá trị pháp lý của bản án, quyết định sơ thẩm. Ngoài ra, bản án, quyết định sơ thẩm chưa hẳn là đã có sai lầm, vi phạm pháp luật để toà án cấp phúc thẩm sửa bản án, quyết định sơ thẩm đó. Do đó, theo chúng tôi, trong trường hợp này cần hướng dẫn thẩm phán phụ trách việc giải quyết vụ án ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự và tuyên bố bản án sơ thẩm không có hiệu lực pháp luật.

4. Thủ tục xét xử phúc thẩm

- Về việc hoãn phiên toà phúc thẩm

Các văn bản pháp luật trước đây quy định nguyên đơn kháng cáo đã triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng thì Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án theo trình tự phúc thẩm và bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật. Nếu đương sự kháng cáo không phải là nguyên đơn hoặc đương sự không kháng cáo nhưng đã được toà án cấp phúc thẩm triệu tập đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng Toà án xét xử vụ án vắng mặt họ. Tuy nhiên việc quy định này là không hợp lý vì việc xét xử phúc thẩm là dựa trên yêu cầu kháng cáo, trong khi đó bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đưa ra yêu cầu kháng cáo triệu tập đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng thì Toà án xét xử vụ án vắng mặt họ hoặc nguyên đơn cũng không có mặt tại phiên toà phúc thẩm mà không có lý do chính đáng thì hội đồng xét xử phúc thẩm vẫn phải mở phiên toà để xét xử. Để khắc phục hạn chế này, Điều 266 BLTTDS quy định người kháng cáo vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên toà. Nếu người kháng cáo đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ việc kháng cáo và Toà án ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm phần vụ án có kháng cáo của người kháng cáo vắng mặt. Người tham gia tố tụng khác không phải là người kháng cáo vắng mặt tại phiên toà thì việc hoãn phiên toà hay vẫn tiến hành xét xử phúc thẩm được thực hiện như ở giai đoạn sơ thẩm theo quy định tại các Điều 199, 200, 201, 202, 203, 204, 205 và 206 BLTTDS. Thời hạn hoãn phiên toà và quyết định hoãn phiên toà phúc thẩm được thực hiện như giai đoạn sơ thẩm theo quy định tại Điều 208 BLTTDS.

- Thủ tục phiên toà phúc thẩm

Điều 68 PLTTGQCVADS, Điều 69 PLTTGQCVAKT, Điều 70 PLTTGQCTCLĐ quy định về thủ tục phiên toà phúc thẩm rất sơ sài, chỉ quy định chung chung là được tiến hành tương tự phiên toà sơ thẩm. Tuy nhiên, BLTTDS đã quy định cụ thể, chi tiết về trình tự, thủ tục tiến hành phiên toà phúc thẩm từ khi chuẩn bị khai mạc phiên toà đến khi kết thúc phiên toà trong đó đã bổ sung các quy định để đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp, mở rộng quyền dân chủ, phát huy tính tích cực, chủ động của các đương sự và những người tham gia tố tụng khác trong việc trình bày yêu cầu, đề nghị, xuất trình chứng cứ, xét hỏi và tranh luận tại phiên toà. Cụ thể:

Trước khi khai mạc phiên toà, thư ký toà án phải tiến hành các công việc để chuẩn bị khai mạc phiên toà. Sau đó, chủ toạ phiên toà khai mạc phiên toà; giải quyết yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch; xem xét, quyết định, hoãn phiên toà khi có người vắng mặt; bảo đảm tính khách quan của người làm chứng (Điều 267, 212, 213, 214, 215, 216).

Trong phần hỏi tại phiên toà, BLTTDS đã có một số quy định mới so với các văn bản pháp luật tố tụng trước đây cụ thể như sau:

Thứ nhất, chủ toạ phiên toà hỏi và hội đồng xét xử xem xét việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn, việc thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị, việc thoả thuận của cá đương sự tại phiên toà phúc thẩm.

Nếu nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì hội đồng xét xử phải hỏi bị đơn có đồng ý hay không? Nếu bị đơn không đồng ý thì hội đồng xét xử không chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn và phiên toà phúc thẩm vẫn tiến hành bình thường. Nếu bị đơn đồng ý thì hội đồng xét xử chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn và ra quyết định huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án (Điều 268, 269). Quy định mới này vừa thể hiện sự tôn trọng nguyên tắc quyền tự định đoạt của dương sự đồng thời vừa bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự khác.

Nếu các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án, thoả thuận của họ là tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội, thì hội đồng xét xử phúc thẩm ra bản án phúc thẩm sửa lại bản án sơ thẩm, công nhận sự thoả thuận của đương sự. (Điều 268, 270).

Thứ hai, việc nghe lời trình bày của các đương sự tại phiên toà. Theo quy định tại Điều 271 BLTTDS người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự thường trình bày trước sau đó đương sự bổ sung ý kiến. Quy định mới này cho thấy việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự dần dần được giao cho những người am hiểu pháp luật và có trình độ chuyên môn cao thực hiện và như vậy chất lượng và hiệu quả xét xử sẽ được nâng cao cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự được bảo vệ một cách tốt nhất.

Việc tiến hành tranh luận, nghị án, trở lại việc hỏi và tranh luận, thời gian nghị án, tuyên án, sửa chữa, bổ sung bản án phúc thẩm được thực hiện như thủ tục sơ thẩm tuy nhiên việc hỏi và tranh luận chỉ về những vấn đề thuộc phạm vi xét xử phúc thẩm (Điều 273, 274).

Có thể nói các quy định của BLTTDS về phiên toà phúc thẩm đều nhằm thể hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta trong hoạt động tư pháp theo xu hướng thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch trong phiên toà đồng thời tôn trọng và phát huy quyền tự định đoạt của đương sự qua đó toà án có thể ra được một bản án chính xác, công bằng và đúng pháp luật.

5. Quyền hạn của hội đồng xét xử phúc thẩm

Điều 69 PLTTGQCVADS chỉ quy định hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền sửa toàn bộ bản án sơ thẩm, đình chỉ giải quyết vụ án nhưng lại không quy định về quyền sửa một phần bản án sơ thẩm, không tuyên bố về số phận pháp lý của bản án sơ thẩm là có hay không có hiệu lực pháp luật, không quy định về quyền tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm, đình chỉ xét xử phúc thẩm. Điều này đã dẫn đến khó khăn cho toà án trong việc áp dụng khi không có các căn cứ pháp lý để ra quyết định. Tất cả những vướng mắc này hiện nay đã được BLTTDS giải quyết. Cụ thể theo quy định tại các điều 260, 265, 275, 276, 278 BLTTDS hội đồng xét xử có quyền hạn sau:

- Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa một phần bản án sơ thẩm nếu toà án cấp sơ thẩm quyết định không đúng pháp luật trong trường hợp việc chứng minh và thu thập chứng cứ đã thực hiện đầy đủ và theo đúng quy định của BLTTDS; việc chứng minh và thu thập chứng cứ chưa thực hiện đầy đủ ở cấp sơ thẩm nhưng tại phiên toà phúc thẩm đã được bổ sung đầy đủ;

- Hội đồng xét xử phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án, nếu trong quá trình giải quyết vụ án tại toà án cấp sơ thẩm, vụ án thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 192 của BLTTDS;

- Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án khi có căn cứ tại Điều 189 BLTTDS;

- Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án khi có căn cứ tại Điều 260 của BLTTDS.

Trên đây là những sửa đổi, bổ sung cơ bản về chế định phúc thẩm dân sự trong BLTTDS. Những quy định mới này có thực sự đáp ứng được những đòi hỏi của thực tiễn hay không cần phải có thời gian nhận thức, kiểm nghiệm. Và còn nhiều vấn đề khác nữa cần phải được tiếp tục nghiên cứu để chế định phúc thẩm dân sự ngày càng hoàn thiện hơn./.

SOURCE: TẠP CHÍ LUẬT HỌC SỐ ĐẶC SAN VỀ BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét