Thứ Ba, 1 tháng 1, 2008

HOÀN THIỆN CƠ CHẾ QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN VỚI CÁC ĐỊNH CHẾ XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

GS. TS. LÊ VĂN QUANG

Tổng Biên tập Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị quân sự
Tạp chí Cộng sản điện tử số 111-2006

Trong lịch sử, mỗi hình thức quan hệ xã hội cụ thể quy định sự hình thành và phát triển của từng định chế xã hội. Về thực chất, định chế xã hội là tổng hòa hệ thống tổ chức thiết chế xã hội với hệ thống quy định về phương thức tổ chức hoạt động của cá nhân và cộng đồng theo những mối quan hệ tương ứng. Khi xã hội có sự phân chia giai cấp, hệ thống định chế xã hội luôn mang tính giai cấp, đồng thời được phân định thành các định chế xã hội chính trị như chính đảng, nhà nước, đoàn thể chính trị, liên minh chính trị… và các định chế xã hội dân sự như tổ chức cộng đồng, tổ chức phi chính phủ, tổ chức dân tộc, tổ chức tôn giáo, tổ chức kinh tế…
Quan hệ giữa Nhà nước pháp quyền với đời sống xã hội dân sự được biểu hiện ở sự tương tác giữa kiến trúc thượng tầng pháp lý cùng các tổ chức nhà nước tương ứng với các tổ chức đoàn thể, xã hội và các thành viên của nó. Nhà nước vừa là một định chế xã hội chính trị, vừa là trung tâm nối kết, điều tiết, xác lập và thực hiện cơ chế quan hệ giữa các định chế xã hội về mặt pháp luật. Các tổ chức chính trị – xã hội không thuộc hệ thống bộ máy nhà nước luôn đóng vai trò pháp nhân với quyền và nghĩa vụ pháp lý, đồng thời với tư cách thể nhân khi quan hệ với các định chế xã hội khác. Quan hệ của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với xã hội dân sự ở Việt Nam là quan hệ đang trong quá trình hình thành, phát triển của một xã hội có nền kinh tế chậm phát triển, chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, chịu sự tác động mạnh của nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Bởi vậy, chúng ta cần dựa vào các nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và xuất phát từ thực tiễn đất nước, trước hết là nhu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, để có một hệ thống nguyên tắc chỉ đạo trong giải quyết quan hệ giữa Nhà nước và xã hội dân sự. Trong đó, việc giải quyết quan hệ giữa nguyên tắc định chế xã hội chính trị và nguyên tắc định chế xã hội dân sự là một nhiệm vụ cần thiết trong nhận thức và tổ chức thực tiễn.
Nguyên tắc định chế xã hội chính trị thực chất là nhận thức và giải quyết vấn đề kết hợp biện chứng giữa định hướng xã hội chủ nghĩa và mở rộng dân chủ hóa trong đổi mới tổ chức và hoạt động của tất cả các định chế xã hội phù hợp với tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Việc thực hiện nguyên tắc này trước hết đòi hỏi phải không ngừng đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn bộ đời sống xã hội. Đồng thời, nhất thiết xây tạo được hệ thống động lực chính trị – tinh thần nhằm mục đích xây dựng Nhà nước với các định chế và đời sống xã hội dân sự theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Nguyên tắc định chế xã hội dân sự xuất phát từ yêu cầu hướng Nhà nước vào mục tiêu bảo đảm nhu cầu dân sự của nhân dân, thực hiện chức năng xã hội dân sự trong quản lý các chế định xã hội. Đồng thời, khuyến khích vai trò tự quản của các chế định xã hội trên cơ sở tuân theo pháp luật và được bảo hộ các quyền hợp pháp, tự quyết định kế hoạch phát triển nội bộ và phấn đấu vì lợi ích cao nhất của mọi thành viên theo nguyên tắc công bằng, dân chủ và không trái pháp luật. Nguyên tắc này đòi hỏi phải xây tạo và phát huy hệ thống động lực về chính trị – xã hội để hoàn thiện cơ chế quan hệ về phương diện xã hội dân sự.
Từ sự nhận thức và định hướng giải quyết các vấn đề nói trên, chúng ta thấy, để hoàn thiện cơ chế quan hệ giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân với các định chế xã hội ở nước ta hiện nay, cần thực hiện đồng bộ các biện pháp cơ bản sau:
Một là, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với tổ chức và hoạt động của các tổ chức chính trị – xã hội. Trước hết, Đảng cần nâng cao hiệu quả lãnh đạo hệ thống chính trị để thắt chặt quan hệ giữa Nhà nước với xã hội dân sự, làm cho mọi phương tiện tổ chức và hoạt động của Nhà nước đều hướng về nhân dân, xuất phát từ đời sống xã hội dân sự và quyền con người, đồng thời mở rộng dân chủ và giữ nghiêm kỷ cương, pháp luật. Đảng không những quyết định quá trình hoàn thiện cơ chế quan hệ giữa Nhà nước với các chế định xã hội theo định hướng chính trị, yêu cầu pháp luật, mà còn theo định hướng nâng cao tính nhân văn. Cần có nhiều biện pháp lãnh đạo trực tiếp các cơ quan nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức; phát huy tốt vai trò của nhân dân và các định chế xã hội; khắc phục những bức xúc có thể gây cản trở quá trình củng cố, hoàn thiện cơ chế quan hệ giữa Nhà nước với các định chế xã hội nhằm nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong hoàn thiện cơ chế quan hệ giữa Nhà nước với các định chế xã hội, cần triển khai nhiều nội dung: phân định rõ chức năng lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý của Nhà nước; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa đối với kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, tổ chức, hoạt động của Nhà nước và toàn xã hội; chính quyền các cấp cần cụ thể hóa nghị quyết của tổ chức đảng thành quyết định quản lý và phối hợp hoạt động theo đúng quy định của pháp luật. Đảng lãnh đạo chính quyền các cấp nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, cải thiện mối quan hệ với các định chế xã hội; lãnh đạo hệ thống chính trị và phát huy tất cả các định chế xã hội trong xây dựng Nhà nước và xây dựng xã hội dân sự. Những nội dung cơ bản trên đòi hỏi toàn Đảng cũng như mọi tổ chức đảng và đảng viên phải tự xây dựng, chỉnh đốn; không ngừng hoàn thiện cơ chế phối hợp hoạt động với các thành viên của hệ thống chính trị và các định chế xã hội dân sự; thực sự gần dân và làm tốt công tác tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Hai là, hoàn thiện các quy phạm xã hội dân sự nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, cùng với hoàn thiện cơ sở pháp lý để quản lý xã hội dân sự bằng pháp luật. Trong việc hoàn thiện các quy phạm xã hội dân sự, cần xác định những nguyên tắc lý luận để tiếp tục làm rõ vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của các định chế xã hội cơ bản nhất; giải quyết một cách khoa học nguyên tắc phân định giữa quy phạm pháp luật với quy phạm xã hội dân sự. Khi tổ chức thực hiện, cần tập trung hoàn thiện các tôn chỉ, mục đích, quy tắc, quy định, điều lệ của các định chế xã hội trên cơ sở tuân thủ pháp luật và độc lập với pháp luật. Cùng với việc thường xuyên phát hiện và khắc phục những hạn chế, tiêu cực trong đời sống cộng đồng và các định chế xã hội, cần hoàn thiện hệ thống quy phạm xã hội dân sự một cách có cơ sở khoa học nhằm phát huy cao nhất quyền làm chủ của nhân dân và giữ vững kỷ cương, pháp luật. Trong hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cần phát triển hệ thống lý luận nhằm xác định những nguyên tắc cơ bản khẳng định nội dung của dân, do dân, vì dân của chế độ xã hội mà chúng ta đang xây dựng. Toàn bộ Hiến pháp, các bộ luật, các nghị định và hoạt động của mọi cơ quan nhà nước đều dựa vào sự đồng tình ủng hộ của toàn dân, phản ánh lợi ích của toàn dân tộc, trước hết là của nhân dân lao động. Việc không ngừng bổ sung, hoàn thiện Hiến pháp và các bộ luật cần được tiến hành thường xuyên trên cơ sở coi trọng pháp chế hóa mối quan hệ giữa tư cách thể nhân và pháp nhân của từng định chế xã hội. Tổ chức thực thi pháp luật trong mọi phương diện đời sống xã hội theo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa chính là giải pháp thực tiễn để hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện nay.
Ba là, xây dựng đoàn thể và tổ chức xã hội vững mạnh trong sự kết hợp với xây dựng cấp ủy và chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh. Xây dựng các đoàn thể chính trị và tổ chức xã hội đòi hỏi phải có sự lãnh đạo và tổ chức chặt chẽ là nhằm không chỉ giữ vững định hướng chính trị, mà còn phát huy cao nhất dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đối với các tổ chức chính trị – xã hội, cần nâng cao vai trò của chúng trên cơ sở pháp lý trong hiệp thương chính trị và quản lý dân sự. Đối với các tổ chức cộng đồng cư dân, cần định rõ tư cách pháp nhân nhằm tạo thuận lợi cho việc tổ chức hoạt động và phát huy vai trò của các thành viên trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Đối với các tổ chức phi chính phủ, cần phát huy vai trò tự quản, cung cấp dịch vụ công theo nguyên tắc không trái pháp luật, đồng thời được củng cố trên cơ sở tuân thủ sự quản lý bằng pháp luật. Đối với các tổ chức tôn giáo, tín ngưỡng, việc quản lý dân sự cần được thể chế hóa phù hợp với đặc điểm của từng tôn giáo; định rõ giữa thể nhân tôn giáo và pháp nhân tôn giáo, giữa tự quản dân sự của tổ chức tôn giáo và quản lý bằng pháp luật của chính quyền. Đối với các tổ chức kinh tế, phải tuân thủ đầy đủ Hiến pháp và pháp luật trong sản xuất, kinh doanh, thực hiện chính sách thuế và bảo đảm quyền lợi của người lao động. Trong xây dựng các cơ quan nhà nước, cần tập trung nâng cao tính định hướng chính trị, tính nhân dân và tính dân tộc; đổi mới tổ chức và hoạt động để tăng hiệu lực quản lý xã hội. Phải triển khai toàn diện việc kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức hoạt động và nâng cao hiệu quả các cơ quan dân cử, bộ máy hành chính, cơ quan tư pháp từ trung ương đến cơ sở. Đồng thời, cần luật pháp hóa cơ chế quản lý vĩ mô và ban hành quy định về hiệp đồng quản lý nhà nước, về tư vấn và trọng tài pháp luật trong các lĩnh vực đời sống xã hội, nhất là lĩnh vực dân sự; thể chế hóa chế độ kiểm tra, giám sát thực hiện Hiến pháp, pháp luật; ban hành và thực hiện nghiêm chính sách thuế theo luật định. Cần hiện thực hóa nguyên tắc kết hợp giữa phân công nhiệm vụ theo chức năng cho các cơ quan chuyên môn với phân cấp quản lý cho các cấp chính quyền.
Bốn là, xây dựng đội ngũ cán bộ của đoàn thể và tổ chức xã hội, nâng cao trình độ dân trí trong sự kết hợp với củng cố đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. Trước hết, cần định rõ vai trò của cán bộ, công chức nhà nước, cán bộ các đoàn thể, tổ chức xã hội và trình độ dân trí trong hoàn thiện cơ chế quan hệ giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với các định chế xã hội. Với tư cách định chế xã hội - đảng cầm quyền, Đảng ta phải quan tâm đào tạo, bố trí đội ngũ cán bộ cho cả hệ thống chính trị, không chỉ là cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước mà còn là cán bộ các đoàn thể, tổ chức xã hội. Cần xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan nhà nước, cũng như tính chất của từng định chế xã hội để xây dựng và triển khai mô hình chung và mô hình chuyên biệt cho từng nhóm, ngành cán bộ; xác định quy chế, phương pháp xem xét, đánh giá cả về đức và tài để hoàn thiện nội dung đào tạo, quy hoạch sử dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ; tổ chức lại công tác cán bộ theo yêu cầu thắt chặt quan hệ giữa Nhà nước và các định chế xã hội. Sử dụng cán bộ cần đi đôi với bồi dưỡng, nâng cao chất lượng cán bộ, nhất là cán bộ cơ sở, về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực công tác, trình độ văn hóa toàn diện và công tác chính sách. Cùng với xây dựng đội ngũ cán bộ, cần khẳng định vai trò của trình độ dân trí nhằm phát huy mạnh mẽ văn hóa dân chủ và văn hóa pháp luật trong nhân dân, đồng thời có chiến lược toàn diện, phát huy truyền thống và đón trước được khả năng tiếp tục phát triển của cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại, của toàn cầu hóa và kinh tế tri thức. Để nâng cao văn hóa pháp luật, trách nhiệm công dân trong giữ gìn kỷ cương, phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước và các định chế xã hội, cần tập trung nâng cao trình độ hiểu biết của công dân về các giá trị truyền thống, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm trên thế giới về phương diện nhà nước và pháp luật. Bên cạnh đó, thực hiện nghiêm túc Quy chế Dân chủ ở cơ sở nhằm tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân, gắn với chăm lo xây dựng thôn, bản, khu phố theo tiêu chuẩn văn hóa, văn minh. Trong giáo dục - đào tạo, việc chú trọng giáo dục pháp luật phải chiếm vị trí xứng đáng, được tiến hành chặt chẽ, cơ bản và khoa học. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc cần gắn với xây dựng môi trường văn hóa pháp luật, kỷ luật, phát huy sức mạnh đặc biệt của văn hóa, làm cho các quy phạm pháp luật và quy phạm xã hội thấm sâu vào mỗi người dân như những giá trị bền vững.
Năm là, tập trung giải quyết những bức xúc xã hội nhằm hoàn thiện cơ chế quan hệ giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với các định chế xã hội. Cần gắn việc giải quyết các bức xúc xã hội với xây dựng môi trường và động lực xã hội nhằm hoàn thiện cơ chế quan hệ giữa Nhà nước với các định chế xã hội. Để có cơ chế quan hệ thông suốt thì không những cơ chế đó phải được xác định đúng mà còn phải được đặt trong một môi trường, điều kiện, hoàn cảnh mà mọi thành viên đều thấy đó là giá trị cần theo. Xây dựng được môi trường dân chủ và pháp luật sẽ tạo ra điều kiện tổng thể thuận lợi để giải quyết tốt các bức xúc trong đời sống xã hội, song bản thân quá trình xây dựng môi trường ấy cũng đòi hỏi phải giải quyết tốt các bức xúc xã hội. Giải quyết các bức xúc xã hội sẽ góp phần tích cực xây tạo, kết hợp, cộng hưởng cùng chiều giữa động lực về chính trị – xã hội và động lực về quyền lợi, nghĩa vụ dân sự; giải quyết trọn vẹn, triệt để các bức xúc trong lĩnh vực chính trị và lĩnh vực dân sự sẽ góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện cơ chế quan hệ giữa Nhà nước với các định chế xã hội. Từ định hướng cơ bản đó, cần thực hiện những nội dung chủ yếu trong giải quyết các bức xúc xã hội: Về nhận thức, tư tưởng, phải xác định rõ, mục đích của việc giải quyết các bức xúc xã hội là làm lành mạnh hóa các quan hệ Nhà nước với các định chế xã hội; đồng thời, xác định rõ thái độ và phương pháp đấu tranh. Về công tác tổ chức, cần cụ thể hóa các nhiệm vụ của cả Nhà nước và các định chế xã hội; nâng cao đời sống nhân dân, kết hợp giữa cải cách cơ bản chế độ tiền lương với xóa bỏ mọi đặc quyền, đặc lợi; giải quyết công bằng xã hội; nâng cao tính nghiêm minh của pháp luật và định hướng công luận xã hội; phát huy vai trò của các chủ thể xã hội trong tổ chức thực hiện; đổi mới quá trình dân chủ hóa… nhằm giải quyết tận gốc các bức xúc xã hội./.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét