Thứ Năm, 3 tháng 1, 2008

THỰC TRẠNG VỀ BIỆN PHÁP DÂN SỰ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU

Ths. Trần Kim Chi

VỤ 5 - VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

1. Đặt vấn đề:

Trong hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia quyền sở hữu luôn được ghi nhận là quyền dân sự cơ bản của con người. Với ý nghĩa là cơ sở cho mọi quan hệ kinh tế, chi phối chế độ kinh tế trong xã hội quyền sở hữu được pháp luật bảo vệ bằng nhiều phương thức khác nhau. Việc áp dụng phương thức bảo vệ nào tùy thuộc hậu quả của việc xâm hại, tính chất, mức độ của hành vi xâm hại (nghiêm trọng hay không nghiêm trọng, ngay tình hay không ngay tình), yêu cầu của người bị xâm hại.

Nước ta cũng không ngoại lệ, quyền sở hữu được bảo vệ thông qua các chế tài hành chính, trách nhiệm hình sự và biện pháp dân sự bằng việc khởi kiện vụ, việc dân sự ra Tòa án. Pháp luật còn ghi nhận chủ sở hữu được tự bảo vệ, có quyền ngăn cản bất kỳ người nào có hành vi xâm hại quyền sở hữu của mình, có quyền truy tìm đòi lại tài sản bị người khác chiếm hữu, sử dụng, định đoạt không có căn cứ pháp luật. Trong thực tiễn, việc áp dụng các biện pháp hành chính, trách nhiệm hình sự để bảo vệ quyền sở hữu dường như là biện pháp phổ biến và hiệu quả hơn biện pháp kiện dân sự. Số lượng án kiện dân sự bảo vệ quyền sở hữu không nhiều trong tương quan chung với các loại án kiện dân sự khác. Điều này có thể lý giải từ lẽ tự nhiên trong đời sống xã hội rằng một người khi thực hiện việc chiếm hữu một tài sản mà không biết về nguồn gốc tài sản, nói cách khác là ngay tình trong việc chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật là ít có khả năng. Sự ngay tình nếu có thường có nguồn gốc từ một giao dịch hợp pháp hoặc bất hợp pháp nhưng phát sinh sự kiện dẫn đến việc chiếm hữu không có căn cứ pháp luật hoặc gây thiệt hại đến tài sản của chủ sở hữu. Để bảo đảm cho chủ sở hữu thực hiện có hiệu quả quyền khởi kiện bảo vệ quyền sở hữu, pháp luật dân sự ghi nhận các phương thức kiện khác nhau phù hợp với thực tiễn xâm hại quyền sở hữu: Kiện đòi tài sản; kiện yêu cầu ngăn chặn hoặc chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp; kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại.

2. Thực trạng:

2.1 Vụ án “Đòi nhà đất” tại Tòa án thành phố H.

Nội dung

Năm 1944, cụ Vũ Tá T và cụ Hoàng Thị N mua của ông Ngô Ngọc Khánh một thửa đất diện tích 90m2 tại số 135 phố TS (số cũ 175 làng An Hạ). Đất được cấp bằng khoán điền thổ mang tên hai cụ, số thửa 42 (Trong giấy tờ mua bán năm 1929 giữa ông Khánh với chủ cũ thì trên đất có một nhà cấp 4). Năm 1946, toàn quốc kháng chiến gia đình hai cụ tản cư về quê. Theo lời khai của ông Vũ Ngọc L (con trai của hai cụ) thì nhà đất khóa cửa để lại, không gửi ai; vào các 1971,1990,2002 ông L có quay về đòi nhà đất đã bị gia đình ông Đào Văn T chiếm giữ. Thang 4/2003, ông L khởi kiện ra Tòa án nhân dân quận Đ đòi nhà. gia đình ông T không trả và cho rằng nhà đất được thừa kế từ cha, mẹ và gia đình ông đã sử dụng ổn định từ năm 1951 (nộp thuế đầy đủ); năm1991 ông T làm nhà hai tầng và mua thêm một ngôi nhà cấp 4, diện tích 27m2 của anh Nguyễn Văn Đ liền phía sau nhà hai tầng, tổng diện tích hiện gia đình ông T đang sử dụng là 60m2.

Tòa án cấp sơ thẩm xác minh:

+ Nguồn gốc nhà đất gia đình ông T không có nên chưa làm được thủ tục đăng ký quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất (ông T có lời khác nhau về nguồn gốc: Do cha, mẹ ông lấn chiếm đất ao làm nhà; không rõ mua của ai; do mua 60m2 đất ao của cụ Vũ Tá T, nhưng ông T không có bằng chứng về việc mua bán).

+ Công văn của cơ quan quản lý nhà đất xác định: Nhà số 135 phố TS (Hiện gia đình ông T đang sử dụng) thuộc thửa số 18 bản đồ gốc 104-6G-II-44 có nguồn gốc là một phần thửa số 42 tờ bản đồ số 12 đứng tên cụ Vũ Tá T và vợ là cụ Hoàng Thị N.

Quyết định

- Bản án dân sự sơ thẩm số 19 ngày 6/10/2004 của Tòa án quận Đ quyết định: Xác nhận nhà mang biển số 175 An Hạ (cũ) nay là 135 phố TS thuộc thửa số 18 thuộc quyền sở hữu của cụ T và cụ N Chấp nhận yêu cầu kiện đòi nhà đất của ông Vũ ngọc L Buộc gia đình ông T. trả lại diện tích nhà đất thực tế đo là 60m2 (gồm 1 nhà 2 tầng diện tích 38m2, 1 nhà cấp 4 diện tích 25m2) cho ông L. Ông L thanh toán giá trị xây dựng cho gia đình ông T.

- Bản án dân sự phúc thẩm số 05 ngày 11/1/2005 của Tòa án thành phố H quyết định: Chấp nhận đơn kháng cáo của ông Đào Văn T, sửa bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án quận Đ Bác yêu cầu đòi nhà đất của ông Vũ Ngọc L.

Bình luận

Đánh giá chứng cứ: Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng việc xác minh của cấp sơ thẩm về nguồn gốc nhà đất được hiểu không chính xác và không đầy đủ: “Bằng khoán điền thổ số 175 tổng An Hạ” được hiểu là “Nhà số 175”; Phần nhà đất của ông T. có hai thửa, thửa 18 sát đường (có nhà 2 tầng) và thửa 22 (nhà cấp 4) nhưng cấp sơ thẩm chỉ xác minh về thửa 18 là không đầy đủ. Trên đất có nhà hay không có nhà chưa có căn cứ.

Nhận định của án phúc thẩm có phần khiên cưỡng, không toàn diện. Việc hiểu bằng khoán điền thổ 175 là nhà số 175 có thể chính xác hoặc chưa chính xác, nhưng thực chất thửa đất số 42 mang bằng khoán 175 và nhà số 175 cũng tọa lạc trên thửa đất 42 đứng tên cụ T và cụ N Nội dung công văn của cơ quan nhà đất nêu trên đã giải thích: Thửa số 18 (gia đình ông T. đang sử dụng) là 1 phần của thửa số 42 mang tên cụ T và cụ N thuộc bằng khoán điền thổ số 175. Cấp sơ thẩm chỉ xác minh về thửa số 18 vì trước đó ngày 4/6/1998 cơ quan địa chính đã lập “Biên bản xác định mốc giới theo hiện trạng sử dụng đất” thửa số 18 có diện tích 60,8m2 (gồm cả thửa 18 và thửa 22), việc nhập hai thửa vào một có đơn đề nghị của ông T (tài liệu được lưu trong hồ sơ). Như vậy, kết luận của cấp phúc thẩm không có căn cứ.

Về nhà trên đất: năm 1929, khi ông Khánh mua của chủ cũ, hợp đồng thể hiện có nhà cấp 4. Hợp đồng mua bán giữa ông Khánh với hai cụ không thể hiện có nhà, cấp phúc thẩm nhận định chưa đủ căn cứ xác định có nhà trên đất. Tuy nhiên cấp phúc thẩm cũng chưa có căn cứ để khẳng định điều này, để làm rõ tình tiết về nhà, cần xác minh việc cụ T cụ N có ở tại thửa đất này từ khi mua (năm 1944) đến khi đi tản cư; tờ biên lai nộp thuế thổ trạch năm 1953 ghi tên bà Th (mẹ ông T) nộp tiền, nhưng có dòng chữ ghi tên cụ Vũ Tá T.

áp dụng pháp luật: Bản án phúc thẩm nhận định Toà án cấp sơ thẩm áp dụng văn bản pháp luật cũng như xác định quan hệ pháp luật không đúng: Ông L đòi nhà đất mà ông T đã ở từ những năm 1951. Như vậy quan hệ được xác lập trước ngày 1/7/1991, nếu có nhà trên đất thì phải áp dụng Nghị quyết số 58/UBTVQH10 ngày 29/10/1998, nếu chỉ liên quan đến đất thì áp dụng Luật đất đai năm 2003 để giải quyết. Cấp sơ thẩm xác định quan hệ “Đòi nhà đất” và áp dụng quy định của Bộ luật dân sự để giải quyết là không đúng.

Mặc dù nhận định như trên, nhưng Toà án cấp phúc thẩm không chỉ ra căn cứ pháp luật để giải quyết vụ án; Cấp phúc thẩm quyết định bác yêu cầu đòi nhà đất của ông L với nhận định cho rằng quyết định của cấp sơ thẩm chưa đủ căn cứ, thiếu chính xác là không đúng về tố tụng vì đây chỉ là căn cứ để cấp phúc thẩm quyết định huỷ án sơ thẩm để chứng minh, thu thập chứng cứ làm rõ yêu cầu của ông L.

2.2 Vụ án “Đòi bồi thường thiệt hại về tài sản” tại Toà án tỉnh Bến Tre.

Nội dung

Ông Nguyễn Văn Lãnh là chủ sở hữu hai chiếc tàu TG 1986 và BĐ 2539. Ông thuê hai tài công sử dụng tàu đánh bắt tài sản. Khi tàu hoạt động có mua một số nguyên vật liệu của ông Trần Văn Tuấn và Trần Văn Bé. Ông Lãnh cho rằng khoản tiền mua nguyên liệu là do các tài công phải trả vì có thoả thuận miệng giữa ông với tài công về hưởng lợi nhuận và chịu chi phí, nhưng điều này không được các tài công thừa nhận, trong khi ông Lãnh lại ký xác nhận nợ với ông Tuấn và ông Bé. Do việc ông Lãnh không trả nợ cho ông Tuấn, ông Bé nên ngày 8/3/2000 các bên yêu cầu Công an huyện giải quyết và lập biên bản hoà giải với nội dung: Ông Lãnh đưa tàu BĐ 2539 về sửa chữa, để lại tàu TG 1986 cùng nhau thuê tài công tại địa phương để làm ăn khắc phục hậu quả. Tuy nhiên, hai bên đã không thực hiện thoả thuận này và ngày 18/11/2000 khi ông Lãnh định đưa tàu TG 1986 về thì bị ông Tuấn, ông Bé giữ tàu yêu cầu ông Lãnh thanh toán nợ mới được đưa tàu đi. Sự việc đã không được giải quyết dứt điểm đẫn dến tàu chìm thiệt hại 100%.

Ngày 4/9/2002, ông Lãnh khởi kiện yêu cầu Toà án huyện Ba Tri buộc ông Tuấn, ông Bé liên đới bồi thường 70% giá trị còn lại của tàu (432.253.000đ x 70% = 302.773.000đ) và tiền mất thu nhập bình quân mỗi tháng 3.000.000đ tính từ tháng 11/2000.

Quyết định

- Bản án dân sự sơ thẩm số 124/2006/DS-ST ngày 7/8/2006 của Toà án huyện Ba Tri quyết định: Bác yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại về tài sản của ông Nguyễn Văn Lãnh đối với ông Trần Văn Tuấn, ông Trần Văn Bé. Buộc ông Lãnh phải trả cho ông Tuấn, ông Bé mỗi người số tiền là 33.790.000đ (Vốn 15.000.000, lãi 20.790.000đ)

- Bản án dân sự phúc thẩm số 21 ngày 18/10/2006 của Tòa án tỉnh Bến Tre quyết định: Chấp nhận 1 phần kháng cáo của ông Lãnh, sửa án sơ thẩm, xử: Chấp nhận một phần yêu cầu của ông Lãnh về việc bồi thường số tiền 495.000.000đ trong đó tiền thiệt hại tàu là 375.000.000đ và tiền mất thu nhập là 120.000.000đ (48 tháng x 3.000.000đ). Buộc ông Lãnh trả cho ông Tuấn, ông Bé mỗi người số tiền 35.790.000đ trong đó tiền vốn là 15.000.000đ, lãi là 20.000.000đ

- Ngày 11/7/2007, Viện kiểm sát nhân dân tối cao số 69/QĐ-KNGĐT-V5 kháng nghị bản án phúc thẩm trên.

- Quyết định giám đốc thẩm số 232/2007/DS-GĐT ngày 24/8/2007 của Toà dân sự Toà án tối cao quyết định: Chấp nhận kháng nghị của VKSNDTC, huỷ án sơ thẩm, án phúc thẩm, xét xử sơ thẩm lại.

Bình luận

Quy định pháp luật: Điều 609 Bộ luật dân sự năm 1995 về “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại”, Điều 604.1 Bộ luật dân sự năm 2005 về “Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại” tuy tên điều luật có sửa đổi nhưng nội dung đều thể hiện: Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có lỗi khi thực hiện hành vi trái pháp luật xâm hại đến nhân thân, tài sản của người khác mà gây thiệt hại.. Bản án sơ thẩm quyết định bác yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại về tài sản của ông Lãnh không xem xét đến trách nhiệm của ông Tuấn, ông Bé đã chiếm giữ tàu không có căn cứ pháp luật. Bản án phúc thẩm buộc ông Tuấn, ông Bé liên đới chịu trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại theo lời khai của ông Lãnh mà không xem xét đến lỗi của các bên đối với thiệt hại xẩy ra. Tại biên bản giải quyết ngày 8/3/2000 các bên không thoả thuận về trách nhiệm giữ gìn, bảo quản tàu. Về nguyên tắc, chủ sở hữu có quyền khai thác, sử dụng, định đoạt tài sản đáp ứng nhu cầu của mình nhưng đồng thời có nghĩa vụ tự bảo quản, giữ gìn tài sản của mình. Vấn đề này đã không được Toà án đề cập khi xem xét trách nhiệm của ông Lãnh để xẩy ra thiệt hại. Nguyên tắc chung trong việc xác định trách nhiệm bồi thường được quy định trong Bộ luật dân sự và trong Nghị quyết số 01/2004/NQ-HĐTP ngày 28/4/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy dịnh của Bộ luật dân sự về bồi thường thiệt hại không được hai cấp Tòa án áp dụng khi giải quyết tranh chấp.

Thực tiễn: Ông Lãnh yêu cầu ông Tuấn, ông Bé bồi thường thu nhập bị mất do tàu bị chiếm giữ, không khai thác đánh bắt hải sản như trong điều kiện bình thường. Toà án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu của ông Lãnh mà không đề căn cứ xác định thiệt hại đối với thu nhập bị mất được quy định trong Bộ luật dân sự. Hướng dẫn trong Nghị quyết số 01 nói trên chỉ đề cập thu nhập từ lao động trực tiếp của người lao động, mà chưa có hướng dẫn trong trường hợp thu nhập có được từ lợi nhuận trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Toà án cấp phúc thẩm xác định do tàu bị chìm nên không thể xác định mức độ thiệt hại và chấp nhận lời khai của ông Lãnh: Tàu đóng được 6 năm trước thời điểm các bên thoả thuận việc sử dụng tàu để khắc phục hậu quả, giá trị còn lại của tàu là 70% tương ứng với số tiền là 375.000.000đ để buộc ông Tuấn, ông Bé bồi thường. Có ý kiến khác nhau: ý kiến đồng tình với nhận định của Tòa án cấp phúc thẩm, căn cứ xác định thiệt hại dựa trên giá trị còn lại của tàu theo lời khai của chủ sở hữu. ý kiến khác cho rằng giá trị còn lại của tàu cần được xác minh từ thực tiễn tại địa phương, nếu chỉ căn cứ lời khai của chủ sở hữu mà không xác minh là thiếu khách quan.

2.3 Vụ án “Đòi Tài sản” tại Toà án tỉnh VP.

Nội dung

Ngày 20/2/2002, ông Đặng Huy S ký hợp đồng mua máy xúc đào hiệu DAEWOOSOLAR-130W-III sản xuất năm 1994 của Công ty thương mại Minh Anh với giá 115.000.000đ. Ngày 22/2/2002, bà Hoàng Thị Ch (vợ ông Đặng Huy S) và bà Nguyễn Thị Th ( vợ ông Trần Văn B) ký giấy xác nhận hai gia đình mua chung máy xúc đào hiệu SOLAR 130 sản xuất năm 1998 với giá 270.000.000đ (giấy xác nhận ghi tên ông S, ông B nhưng không có chữ ký tên hai ông), có xác nhận của ủy ban nhân dân xã. Ngày14/5/2003, vợ chồng bà Ch, ông S bán máy xúc cho ông Luân với giá 300.000.000đ.

Bà Th khởi kiện yêu cầu vợ chồng bà Ch trả 1/2 trị giá máy xúc mua chung là 135.000.000đ tính đến thời điểm 25/10/2002, sau thời điểm này gia đình bà Ch phải chịu lãi suất ngân hàng và trị giá chênh lệch tài sản. Bà Ch không thừa nhận việc mua chung máy xúc và chữ ký tên bà trên giấy xác nhận mua chung máy.

Tòa án thu thập chứng cứ, xác minh cho thấy chỉ có một cái máy xúc. Kết luận giám định của Cơ quan công an tỉnh và Viện khoa học kỹ thuật hình sự Bộ công an đều xác định chữ ký, chữ viết tên là của bà Ch

Quyết định

Bản án dân sự sở thẩm số 07/DS/ST ngày 18/6/2004 của Tòa án huyện TD quyết định: Buộc gia đình ông S, bà Ch phải trả cho gia đình bà Th tiền bán máy xúc đào và tiền lãi là 164.775.000đ.

Bản án dân sự phúc thẩm số 24/DSPT ngay7f 20/4/2005 của Tòa án tỉnh VP quyết định: Không chấp nhận kháng cáo của gia đình bà Ch. Y toàn bộ án sơ thẩm.

Ngày 18/52005 Viện kiểm sát tỉnh VP có công văn số 742/BC-VKS-P5 đè nghị Viện kiểm sát tối cao kháng nghị bản án phúc thẩm theo thủ tục giám đốc thẩm. Viện kiểm sát tối cao có công văn trả lời VKS tỉnh không có căn cứ kháng nghị bản án phúc thẩm theo thủ tục giám đốc thẩm.

Bình luận

Nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự: VKS tỉnh cho rằng tài liệu chứng cứ còn nhiều mâu thuẫn: Hợp đồng giữa ông S với Công ty Minh Anh phản ánh máy xúc sx năm 1994, giá mua 115.000.000đ, nhưng giấy xác nhận mua chung máy giữa hai gia đình thì giá mua là 270.000.000đ, máy sx năm 1998. Do vậy, nếu chỉ căn cứ giấy xác nhận mua chung máy để buộc gia đình bà Ch phải thanh toán trả 1/2 trị giá máy xúc mua chung là không đúng, bởi lẽ chiếc máy xúc gia đình ông S mua với máy xúc ghi trong giấy xác nhận mua chung không phải là một.

Vấn đề đặt ra: Người khởi kiện đưa ra yêu cầu đòi tài sản và xuất trình chứng cứ là giấy xác nhận mua chung tài sản chứng minh quyền sở hữu của mình đối với 1/2 tài sản. Người bị kiện có nghĩa vụ chứng minh nếu không thừa nhận người khởi kiện có quyền sở hữu. Chứng cứ mà người bị kiện xuất trình phải có giá trị phủ nhận đối với chứng cứ xác định có việc mua chung máy xúc. Đối tượng chứng minh là giá trị pháp lý của giấy xác nhận mua chung máy xúc. Các khả năng chứng minh có thể: giấy xác nhận mua chung máy xúc có sự giả mạo, đây là hợp đồng giả cách, bị lừa dối. Như vậy, để bác bỏ yêu cầu của nguyên đơn, thì bị đơn phải chứng minh được giấy xác nhận mua chung máy xúc không có giá trị pháp lý đồng nghĩa với việc không có sự kiện mua chung máy xúc hay yêu cầu của nguyên đơn là không có căn cứ.

Những tình tiết liên quan đến máy xúc trong hợp đồng và trong giấy xác nhận có thể không đồng nhất, nhưng không có giá trị phủ nhận tình tiết về việc mua chung máy xúc. Như vậy, Bên cạnh nghĩa vụ chứng minh thì các vấn đề liên quan đến hoạt động chứng minh như xác định chứng cứ, giá trị chứng minh của chứng cứ, đánh giá chứng cứ cần được xem xét một cách toàn diện...

------------------------------------------------------------------

CHUYÊN ĐỀ CHO HỘI THẢO KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG DO BỘ MÔN LUẬT DÂN SỰ - KHOA LUẬT DÂN SỰ - ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI TỔ CHỨC VÀO NGÀY 11/12/2007

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét