Thứ Ba, 26 tháng 5, 2009

THU NHẬP CỦA LAO ĐỘNG CỦA KHU VỰC NHÀ NƯỚC CAO HAY THẤP?

NGUYỄN QUANG A

Tổng cục thống kê mới công bố thu nhập bình quân hằng tháng của lao động khu vực nhà nước (năm 2006) là 1829,9 ngàn đồng/tháng. Nhiều người kêu thu nhập như thế là quá thấp. Tất nhiên so con số tuyệt đối với các nước phát triển như Anh, Mỹ, Nhật thì hẳn là thấp, song so sánh như vậy là không ổn, là khập khiễng và méo mó. Phải so với những người lao động khác ở trong nước. Hãy xem thực hư thế nào?

Xem xét kỹ hơn thì thấy hơn một nửa số lao động đó là trong lĩnh vực kinh doanh như ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, khai khoáng... Số người này không có thu nhập từ ngân sách mà từ hoạt động sản xuất kinh doanh, nên thực ra các tổ chức này phải tự lo theo cơ chế thị trường và nếu có so sánh thì nên so với khu vực tư nhân tương ứng mới có ý nghĩa. Nếu thu nhập của họ thấp hơn thu nhập của lao động tương tự trong khu vực tư nhân (và thu nhập chính thức của họ chắc là thấp hơn thu nhập của người tương tự ở khu vực tư nhân), thì điều đó có thể có những ý nghĩa gì? Nó có thể chứng tỏ sự yếu kém của khu vực kinh tế quốc doanh (hay sự bóc lột nhiều hơn của chủ sử dụng lao động!?) và chỉ riêng vì lý do này (và nhiều lý do chính đáng khác) nên cải tổ triệt để khu vực này theo hướng tư nhân hóa. Liệt họ vào đây cũng có cái lý vì họ thuộc khu vực nhà nước, song có thể gây ra lẫn lộn giữa hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động nhà nước.
Trong phân tích tiếp theo chúng ta loại họ ra và chỉ xem xét phần công chức, viên chức nhà nước.
Gần hai triệu người có thu nhập chủ yếu từ ngân sách: quản lý nhà nước, an ninh quốc phòng (464,7 ngàn người; 1300,9 ngàn đồng), giáo dục đào tạo (1115,1 ngàn người; 1543,8 ngàn đồng), y tế (229,1 ngàn người; 1555,5 ngàn đồng), thể thao văn hóa (44,4 ngàn người; 1601,1 ngàn đồng), đảng, đoàn thể và hiệp hội (109,8 ngàn người; 1252,6 ngàn đồng). Chính vì thế khi tính trung bình và phân tích lĩnh vực nào thấp, lĩnh vực nào cao, hơn nhau bao nhiêu lần, sẽ mất ý nghĩa khi gộp chung như vậy. Có lẽ nên tách bạch ra sẽ đỡ gây nhầm lẫn hơn.

Nếu tách lĩnh vực kinh doanh ra thì thu nhập trung bình của người lao động nhà nước là 1472,7 ngàn đồng một tháng (17,67 triệu đồng/năm). GDP năm 2006 ước tính 973790 tỷ đồng với dân số 84.155,8 ngàn người, nên GDP đầu người là 11,57 triệu đồng. Như thế thu nhập bình quân của người lao động nhà nước là 1,53 lần GDP đầu người. Nói cách khác tính theo GDP đầu người thì tỷ lệ này chưa chắc đã thấp. Hãy so sánh thu nhập trung bình của người lao động trong lĩnh vực giáo dục của Việt Nam (bằng 1,6 lần GDP đầu người) với lương giáo viên tiểu học (năm 2001) nêu trong báo cáo của OECD (xem hình dưới).

5a4e6bb9c7

Tính bằng GDP đầu người thì thu nhập trung bình của người lao động trong ngành giáo dục của chúng ta cao hơn lương giáo tiểu học của hơn 20 nước trong số 33 nước được khảo sát. Song lại là một so sánh khập khiễng, bạn đọc có thể nói, vì so thu nhập bình quân với lương bình quân của giáo viên tiểu học, so số liệu năm 2006 với số liệu 2001. Đúng vậy, nhưng có lẽ vẫn có thể, vì số giáo viên tiểu học chiếm số đông, và theo Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo, thì lương giáo viên tiểu học năm 2005 là 1,4 triệu đồng/tháng (1,4 GDP đầu người) cũng không phải loại thấp khi so với các nước đó. Về thu nhập của lao động trong ngành y tế có lẽ cũng có bức tranh tương tự khi so sánh quốc tế. Do số người làm trong hai lĩnh vực này là hơn 1,5 triệu trong số gần 2 triệu lao động trong khu vực nhà nước, nên có lẽ có cơ sở để kết luận rằng thu nhập của lao động trong khu vực nhà nước ở Việt Nam, khi tính theo GDP đầu người, không phải là thấp.
Tất nhiên xét về con số tuyệt đối, thu nhập của người lao động của chúng ta còn thấp và đi so sánh con số tuyệt đối là so sánh rất khập khiễng. Chỉ có cách duy nhất để cải thiện con số tuyệt đối nếu có tăng trưởng kinh tế liên tục. Không có tăng trưởng kinh tế, GDP đầu người không cao thì khó có thể đòi thu nhập cao cho bất cứ ai, nói chi đến cho các “đầy tớ”. Có hai vấn đề nổi cộm khi xem xét thu nhập của công chức nhà nước. Một là, thu nhập thực so với thu nhập chính thức (theo sổ sách) là bao nhiêu? Và sự phân bổ rất không đều của thu nhập (thu nhập thực của một số ít [hay nhiều] quan chức cao hơn mức trung bình rất nhiều, và tuyệt đại bộ phận chỉ có lương và thu nhập thấp) là một khuyến khích rất mạnh để người ta chạy chức, chạy quyền, làm băng hoại đạo đức và gây bất bình xã hội. Muốn cải cách lương một cách có cơ sở, chí ít phải nghiêm túc nghiên cứu hai vấn đề ấy.
Hỏi 100 công chức chắc phải có 99 người trả lời “chẳng ai sống bằng lương cả”. Chúng ta thường nghe “đồng lương chết đói nhưng quan chức nào cũng sống đường hoàng”. Lý giải làm sao cho việc tuy lương thấp nhưng số người xin vào làm ở các cơ quan nhà nước vẫn đông. Bổng lộc nhiều hơn lương. Đấy là những thực tế, song đã có ai thử nghiên cứu, đo lường xem tỷ lệ của mức thu nhập thực và thu nhập chính thống là bao nhiêu, phân bổ theo lĩnh vực, cấp bậc, và địa phương ra sao?
Tôi đã trò chuyện với một quan chức tài chính ở một tỉnh. Theo ông này, chi ngân sách thường xuyên gồm 2 phần: phần cứng (nhất thiết phải chi như lương, điện nước, v.v.) chiếm khoảng 65-70%; phần chi cũng được không chi cũng chẳng sao (30-35% còn lại). Trong phần sau thường có đến 60% là chi không đúng (phải hợp thức hóa) và một phần là để bồi dưỡng thêm cho nhân viên cơ quan. Như thế khoảng 18-21% chi thường xuyên là có vấn đề, trong đó một phần để tăng thu nhập thêm cho nhân viên là hợp đạo lý song không hợp lệ, một phần có thể thất thoát. Nếu chia cho nhân viên, không rõ tỷ lệ phân phối ra sao. Nhưng chắc phần thu nhập “hợp đạo lý” đáng nhưng phải “hợp thức hóa” này không lớn vì lương chiếm phần lớn của con số 65-70% trên, may ra có thể thêm 10-15%.
Cũng theo quan chức tài chính đó, thất thoát trong các khoản đầu tư lớn cỡ 20-25% còn các khoản chi nhỏ (sửa chữa, duy tu) tỷ lệ có thể lên tới 50%. Các khoản tham nhũng “được hợp thức hóa” trong chi phí đầu tư này góp phần tăng GDP đồng thời là khoản thu nhập bất chính của một số quan chức. Nếu tỷ lệ trên là đúng (nhiều đại biểu quốc hội cho là tỷ lệ đến 30%) và hãy tính tỷ lệ 20% của tổng vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước (185,1 ngàn tỷ đồng), thì con số thất thoát là khoảng 37 ngàn tỷ đồng. Nếu chia đều cho gần 2 triệu người hưởng lương từ ngân sách thì mỗi người được thêm 19 triệu đồng một năm (cao hơn mức thu nhập chính thức được công bố). Nạn ăn tiền của các ứng viên muốn vào cơ quan nhà nước không phải hiếm. Con em nông dân dù có học chính quy, học giỏi cũng chẳng sao len chân vào các cơ quan nhà nước, trừ khi bán hết nhà cửa để lấy tiền chạy (có khi hàng chục triệu). Trưởng phó phòng muốn lên chức phải chi vài chục triệu là bình thường.
Nếu tính thu nhập thực như vậy thì có lẽ sẽ thấy thu nhập trung bình của người lao động khu vực nhà nước ở ta có lẽ vào loại cao nhất thế giới (tôi đoán chắc như vậy và ước mong các tổ chức nghiên cứu bác bỏ phán đoán của tôi), tính theo GDP đầu người và cả bằng con số tuyệt đối trong trường hợp của các quan to. Vấn đề chính ở đây là sự phân bổ rất không đồng đều, tuyệt đại bộ phận công chức chủ yếu dựa vào lương và phụ cấp, một tỷ lệ nhỏ lại chiếm phần lớn, gây ra chênh lệch thu nhập rất lớn. Chính đây là một khuyến khích rất mạnh để người ta cố “đầu tư” chạy chức, chạy quyền, chạy biên chế.
Nếu giảm được tham nhũng, giảm các khoản thất thoát, rà soát lại các khoản hợp đạo lý nhưng không hợp lệ và hợp pháp hóa chúng, thì chắc chắn việc cải cách lương không gây thêm gánh nặng cho ngân sách, mà lại lành mạnh hóa được hoạt động nhà nước, nâng cao lòng tin của dân vào bộ máy nhà nước, giảm bất công trong chính bộ máy nhà nước, giải toả được nhiều bức xúc xã hội.

SOURCE: TẠP CHÍ TIA SÁNG

Trích dẫn từ: http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=66&CategoryID=7&News=

Thứ Hai, 25 tháng 5, 2009

XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO THEO TÍN CHỈ NGÀNH LUẬT THỜI HỘI NHẬP

PHÁP LUẬT VIỆT NAM - Giáo dục đại học ở Việt Nam đang đứng trước những thách thức không nhỏ từ yêu cầu của xã hội, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và đặc biệt giáo dục đại học của Việt Nam đang tụt hậu khá xa so với các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới. Một trong những giải pháp được nhắc tới nhiều trong giai đoạn hiện nay là việc chuyển từ hệ thống đào tạo truyền thống vốn có sang đào tạo theo tín chỉ - một mô hình chúng ta học tập từ các trường đại học của nước ngoài. Phương thức đào tạo theo tín chỉ hiện đang được đánh giá là phương thức đào tạo tiên tiến với nhiều ưu điểm. Cũng như các ngành đào tạo khác trong hệ thống giáo dục đại học ở Việt Nam, ngành luật cũng cần chuyển sang hình thức đào tạo theo tín chỉ.

1. Xây dựng chương trình đào tạo theo tín chỉ ngành Luật thời hội nhập - Khó hay dễ?

Chương trình đào tạo theo tín chỉ bao gồm hệ thống các môn học bắt buộc và các môn học tự chọn. Các môn học bắt buộc là lượng kiến thức mà sinh viên bắt buộc phải tích lũy và không có quyền lựa chọn. Các môn học tự chọn được xây dựng một cách linh hoạt, với số lượng các môn học trong danh sách tự chọn phong phú, đa dạng để sinh viên có thể lựa chọn những môn phù hợp nhằm tích lũy đủ số tín chỉ cần thiết để được cấp bằng. Đối với ngành luật, chương trình đào tạo theo tín chỉ cũng được phân chia thành các môn học bắt buộc và các môn học tự chọn. Vấn đề là việc xây dựng và sắp xếp các môn học, cũng như phân định các môn học bắt buộc hay tự chọn dựa trên tiêu chí nào?

Theo Điều 3 Khoản 2 Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ (ban hành kèm theo Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐT ngày 15/8/2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo), “học phần bắt buộc là học phần chứa đựng những nội dung kiến thức chính yếu của mỗi chương trình và bắt buộc sinh viên phải tích lũy; học phần tự chọn là học phần chứa đựng những nội dung kiến thức cần thiết, nhưng sinh viên được tự chọn theo hướng dẫn của trường nhằm đa dạng hóa hướng chuyên môn hoặc được tự chọn tùy ý ...”. Vậy thì nội dung kiến thức nào là chính yếu, và nội dung kiến thức nào là cần thiết? Bộ Giáo dục và Đào tạo có cần làm rõ hơn quy định trên hay không?

Hội nhập quốc tế tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, mọi lĩnh vực pháp luật (như lĩnh vực pháp luật kinh tế - thương mại, pháp luật hành chính, pháp luật dân sự, pháp luật hình sự, …), nhưng trước hết là thách thức đối với lĩnh vực pháp luật quốc tế, đặc biệt pháp luật thương mại quốc tế, trong điều kiện Việt Nam là nước có tư duy nông nghiệp đang phải tham gia “luật chơi” thương mại toàn cầu. Do nhận thức được điểm yếu đó trong tiến trình hội nhập, nên việc đưa các môn học về hội nhập kinh tế quốc tế và WTO vào chương trình đào tạo của các trường đại học và các trường Đảng, đã trở thành chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Bên cạnh đó, nhu cầu hiểu biết về pháp luật quốc tế, pháp luật nước ngoài đang đặt ra những đòi hỏi cấp bách đối với các cơ quan Nhà nước, các doanh nghiệp và đội ngũ luật sư, tư vấn pháp luật của Việt Nam. Các cử nhân Luật cần được trang bị đầy đủ và toàn diện kiến thức về pháp luật quốc tế, pháp luật nước ngoài, đặc biệt là pháp luật thương mại quốc tế, luật so sánh, ... Điều này chắc chắn tác động đến định hướng xây dựng chương trình đào tạo theo tín chỉ ngành luật thời hội nhập. Vấn đề đặt ra là: làm thế nào để đưa các môn học mới nhưng rất “chính yếu” thuộc lĩnh vực pháp luật quốc tế, pháp luật nước ngoài vào chương trình đào tạo, trong khi thời lượng chương trình đào tạo có hạn và không dễ gì cắt hoặc hoặc giảm thời lượng các môn luật truyền thống?

Trong số các môn học thuộc lĩnh vực pháp luật quốc tế, ngoài những môn học truyền thống như Công pháp Quốc tế và Tư pháp Quốc tế, môn Luật Thương mại Quốc tế cần được nhìn nhận và đưa vào chương trình đào tạo theo tín chỉ như một mảng kiến thức bắt buộc đối với sinh viên luật. Việc các trường đại học quan tâm đến sự phát triển của môn học Luật Thương mại Quốc tế, như các môn học bắt buộc khác trong chương trình đào tạo, chính là sự đáp ứng nhu cầu chính trị, thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước và đáp ứng nhu cầu của xã hội. Bên cạnh môn Luật Thương mại Quốc tế, một môn học khác cũng đang được quan tâm khi xây dựng chương trình đào tạo ngành luật là môn Pháp luật ASEAN. Đây là môn học có nội dung gì? Là kiến thức “chính yếu” hay kiến thức “cần thiết”? Môn học này nên được xây dựng thành học phần bắt buộc hay học phần tự chọn trong chương trình đào tạo ngành luật?  

Theo chúng tôi, trong trường hợp Bộ Giáo dục và Đào tạo không quy định rõ hơn về Điều 3 Khoản 2 Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ nêu trên, các trường đại học vẫn có thể xác định nội dung kiến thức nào là “chính yếu”, nghĩa là xác định được học phần nào là bắt buộc, dựa trên các tiêu chí cơ bản sau đây:

- Chương trình đào tạo phải được xây dựng trên cơ sở chương trình khung ngành luật do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành;

- Chương trình đào tạo cần được xây dựng phù hợp với thông lệ quốc tế;

- Cố gắng tránh sự trùng lặp nội dung giữa các môn học, nhất là các môn học bắt buộc;

- Chương trình đào tạo cần đáp ứng được các nhu cầu của xã hội, đặc biệt là nhu cầu của người sử dụng lao động;

- Chương trình đào tạo cần được xây dựng phù hợp với định hướng phát triển của trường đại học, của ngành, góp phần thực hiện các mục tiêu và chiến lược phát triển của Đảng và Nhà nước.

Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, các trường đại học phải thực hiện chế độ báo cáo cơ quan chủ quản và các cơ quan cấp trên về các hoạt động của trường theo quy định hiện hành. Cơ quan chủ quản phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện quản lý Nhà nước đối với các trường đại học trực thuộc. Do đó, việc xây dựng chương trình đào tạo của trường đại học, trong chừng mực nhất định, phải tính tới sự phù hợp với chiến lược phát triển của ngành chủ quản và theo định hướng quản lý của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

2. Xây dựng chương trình đào tạo theo tín chỉ ngành luật thời hội nhập - Không thể dựa vào cảm tính

Việc xây dựng chương trình đào tạo theo tín chỉ đối với bất kỳ ngành khoa học nào cũng phải căn cứ trước hết vào các quy định pháp luật hiện hành về giáo dục - đào tạo như: Luật Giáo dục năm 2005, Điều lệ Trường đại học năm 2003, Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ (ban hành kèm theo Quyết định số 43/2007/QĐ-BGD&ĐT ngày 15/8/2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo).

Theo các quy định pháp luật nêu trên, chương trình giáo dục của các cơ sở đào tạo luật ở Việt Nam cần phải được xây dựng và ban hành trên cơ sở chương trình khung giáo dục ngành luật do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định và căn cứ vào nhiệm vụ đào tạo của nhà trường (Điều 41 khoản 1 Luật Giáo dục năm 2005; Điều 6 khoản 4 Nghị định số 75/2006/NĐ-CP ngày 02/08/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục; Điều 10 khoản 2 và Điều 15 khoản 1 Điều lệ Trường Đại học được ban hành kèm theo Quyết định số 153/2003/QĐ-TTg ngày 30/7/2003; Điều 2 khoản 2 Quy chế đào tạo Đại học và Cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ được ban hành kèm theo Quyết định số 43/2007/QĐ-BGD&ĐT ngày 15/08/2007). Ngày 16/9/2005, Chương trình khung giáo dục ngành luật đã được ban hành kèm theo Quyết định số 29/2005/QĐ-BGD&ĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Trong khối kiến thức bắt buộc của chương trình khung, có môn Luật Thương mại Quốc tế với thời lượng 45 tiết. Đây là thời lượng tối thiểu để các trường đại học xây dựng chương trình đào tạo của mình. Do đó, khi xây dựng chương trình đào tạo theo tín chỉ, các cơ sở đào tạo luật phải đưa môn Luật Thương mại Quốc tế vào chương trình, ít nhất là nhằm mục đích tuân thủ các quy định pháp luật hiện hành về giáo dục - đào tạo (chưa tính đến các tiêu chí khác như đáp ứng nhu cầu xã hội, nhu cầu chính trị…).

Trong việc xây dựng chương trình đào tạo theo tín chỉ, ngoài tiêu chí tuân thủ chương trình khung của Bộ Giáo dục và Đào tạo, cần phải cân nhắc đến tiêu chí nâng cao năng lực cạnh tranh của cơ sở đào tạo. Theo đó, trong thời gian gần đây, Đại học Luật Hà Nội - cơ sở đào tạo luật lớn nhất Việt Nam, đã có một số động thái thể hiện sự quan tâm nhằm phát triển môn học Luật Thương mại Quốc tế, như: xây dựng chương trình đào tạo thạc sĩ liên kết với Trường Đại học Tây Anh Quốc về Luật Thương mại Quốc tế; nghiên cứu việc nhập khẩu chương trình đào tạo tiên tiến của Hoa Kỳ, trong đó dự kiến lựa chọn nhập khẩu chương trình đào tạo Luật Thương mại Quốc tế. Là trường đại học trực thuộc Bộ Tư pháp, Đại học Luật Hà Nội được sự quan tâm lớn của Bộ chủ quản và Ngành Tư pháp trong việc xây dựng Đề án Xây dựng Trường Đại học Luật Hà Nội thành trường trọng điểm trình Chính phủ. Đề án đề cập đến nội dung xây dựng một số môn học và bộ môn trở thành trọng điểm, trong đó có môn Luật Thương mại Quốc tế. Đây là lợi thế cạnh tranh rất lớn của Đại học Luật Hà Nội so với các cơ sở đào tạo luật khác trong cả nước.

Theo Điều lệ Trường đại học năm 2003, các trường đại học được quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm về quy hoạch, kế hoạch phát triển nhà trường, tổ chức các hoạt động đào tạo, khoa học và công nghệ, tài chính, quan hệ quốc tế, tổ chức và nhân sự, nhưng trong khuôn khổ pháp luật và Điều lệ Trường đại học. Theo đó, các trường đại học phải thực hiện chế độ báo cáo cơ quan chủ quản và các cơ quan cấp trên về các hoạt động của trường theo quy định hiện hành; cơ quan chủ quản phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện quản lý Nhà nước đối với các trường đại học trực thuộc; trường đại học chịu sự kiểm tra, thanh tra của Bộ Giáo dục và Đào tạo, cơ quan chủ quản và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Do đó, việc xây dựng chương trình đào tạo theo tín chỉ ngành luật, trước hết phải tuân thủ chương trình khung giáo dục ngành luật do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, tiếp theo là phải tính tới sự phù hợp với chiến lược phát triển của Ngành chủ quản. Cuối cùng, quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các trường Đại học thiết nghĩ cũng phải dựa trên trách nhiệm đối với sự nghiệp đào tạo thế hệ luật gia thời hội nhập cho đất nước, đối với sự phát triển của xã hội trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế và gia nhập WTO.

SOURCE: BÁO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Trích dẫn từ:

http://www.moj.gov.vn/p/tag.idempotent.render.userLayoutRootNode.target.n472.uP?uP_root=me&cmd=item&ID=12742

CHUNG QUANH VẤN ĐỀ ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

TIẾN HẢI

Định hướng cho Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) hình thành từ bao giờ ? Đó là sự lựa chọn đúng hay sai, hợp hay không hợp quy luật, thuận hay không thuận lòng dân ? Những vấn đề nêu trên cần được xác định thật rõ ràng, cụ thể. Bởi vì trong bối cảnh tình hình quốc tế diễn biến nhanh chóng, phức tạp như hiện nay, ở nước ta thỉnh thoảng lại bùng lên những ý kiến đòi xem lại con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lựa chọn.

Có ý kiến cho rằng Cụ Hồ "nhập" chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào Việt Nam quá sớm, vì thế CNXH bị "đẻ non", dẫn tới tình trạng yếu ớt, còi cọc và đó chính là lý do làm cho Việt Nam chậm tiến, lạc hậu, ì ạch mãi mà không "cất cánh" lên được.

Ý kiến khác cho rằng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản đã mắc phải bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí, vội vã gắn độc lập dân tộc với CNXH làm cho nền độc lập của nước nhà phải trả bằng một cái giá quá đắt, đó là hai cuộc chiến tranh khốc liệt.

Lại có ý kiến cho rằng, đường lối phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN mà Đảng Cộng sản đề ra là chắp vá, không tưởng. Bởi vì, đã chấp nhận kinh tế thị trường thì không thể định hướng XHCN ; đã định hướng XHCN thì kinh tế thị trường không thể nào phát triển được.

Tóm lại, tất cả những ý kiến đó đều có thâm ý coi việc Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản chọn cho dân tộc con đường đi lên CNXH là một sai lầm, không hợp quy luật, cũng chẳng thuận lòng dân ; nếu không thì Việt Nam đã là nước giàu mạnh, cũng trở thành "con rồng", "con hổ" chứ chẳng kém ai. Cuối cùng họ đòi hủy bỏ mục tiêu XHCN, trở về với giai đoạn dân chủ nhân dân.

Phải bình tĩnh nhìn lại toàn bộ tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam thì mới tìm được lời giải đáp thỏa đáng cho những vấn đề nêu ra trên đây. C.Mác đã từng nói : "Con người làm ra lịch sử của chính mình, nhưng không phải làm theo ý muốn tùy tiện của mình, trong những điều kiện tự mình chọn lấy, mà là trong những điều kiện trực tiếp có trước mắt, đã cho sẵn và do quá khứ để lại"(1). Những lời chỉ dẫn đó của Mác giúp chúng ta nhận thức một cách khách quan hơn về sự lựa chọn con đường đi lên CNXH của Bác Hồ và của Đảng ta. Sự lựa chọn đó là một tất yếu lịch sử, bởi vì lịch sử đòi hỏi phải như thế chứ không thể nào khác được.

Giữa thế kỷ XIX, đế quốc Pháp đánh chiếm nước ta, triều đình nhà Nguyễn hèn nhát đầu hàng. Trước tình hình đó, các sỹ phu yêu nước thay nhau phát động phong trào chống Pháp. Nhưng các phong trào này cũng lần lượt thất bại và đến cuối thế kỷ XIX về cơ bản đã bị đế quốc Pháp dập tắt. Như vậy, các đại biểu ưu tú của chế độ phong kiến đã bất lực, đành phải nuốt hận vì không tìm được con đường cứu nguy dân tộc.

Đầu thế kỷ XX, thay thế các sỹ phu yêu nước là các đại biểu tiên tiến của khuynh hướng dân chủ tư sản, các đại biểu này cũng liên tiếp phát động những phong trào cách mạng, cố gắng tìm con đường cứu nguy dân tộc. Nhưng sau khi Phan Bội Châu bị bắt (1925), Phan Chu Trinh qua đời (1926), Việt Nam Quốc dân Đảng khởi nghĩa thất bại (1930) thì khát vọng "xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ" của họ cũng tiêu tan ; cách mạng Việt Nam lại rơi vào tình trạng "đen tối như không có đường ra".

Trong bối cảnh lịch sử nêu trên, Hồ Chí Minh đã xuất hiện. Sự xuất hiện của Hồ Chí Minh là đòi hỏi của chính lịch sử lúc bấy giờ. Và, Hồ Chí Minh đã đáp ứng được đòi hỏi đó. Sự đáp ứng này thể hiện ở chỗ Người đã tìm ra được con đường đi mới và lực lượng mới cho cách mạng Việt Nam.

Đường đi mới đó (con đường đi lên CNXH) được Hồ Chí Minh phát hiện ra chính thức từ khi nào và trong hoàn cảnh nào ? Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lê-nin đã làm cho Hồ Chí Minh có những nhận thức hoàn toàn mới. Sau khi nghiên cứu kỹ Luận cương nêu trên của Lê-nin, Người khẳng định một cách dứt khoát rằng : "Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ"(2). Từ giờ phút ấy, con đường đi lên CNXH đã được định hình trong tư tưởng Hồ Chí Minh ; sau đó đã được chính Người triển khai bằng cách tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào Việt Nam, xây dựng lực lượng cách mạng trong nước, đào tạo, bồi dưỡng một đội ngũ cán bộ trung kiên làm nòng cốt, tiến tới chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho việc thành lập Đảng Cộng sản. Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên CNXH đã xuất hiện trước khi ở Việt Nam có Đảng Cộng sản.

Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Trong Chánh cương vắn tắt - một văn kiện cực kỳ quan trọng - do Bác Hồ soạn thảo được Hội nghị thành lập Đảng thông qua đã ghi rõ : Phải "làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Sau đó, trongLuận cương chánh trị được Hội nghị Trung ương Đảng tháng 10-1930 thông qua cũng khẳng định : Cách mạng Việt Nam sẽ "bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa".

Như vậy, đi lên CNXH là con đường duy nhất đúng mà Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản đã lựa chọn cho dân tộc Việt Nam. Đó cũng là mục tiêu không thay đổi của cách mạng nước ta. Song CNXH là gì và Việt Nam đi lên CNXH bằng cách nào thì qua mỗi thời kỳ cách mạng chúng ta mới có được những nhận thức ngày càng đầy đủ hơn và sâu sắc hơn.

Sau cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, năm 1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã xác định "đường lối cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội" ở miền Bắc nước ta. Tiếp sau đó, các hội nghị của Trung ương Đảng và của Bộ Chính trị (khóa III) đều có những điều bổ sung và phát triển đường lối cơ bản này.

Đến năm 1976, sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ đã toàn thắng, nước nhà được thống nhất, Đại hội IV của Đảng lại phát triển thêm một bước nữa đường lối xây dựng CNXH của Đại hội III. Đại hội IV đã vạch ra đường lối xây dựng CNXH trong phạm vi cả nước là : "Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng : cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt ; đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa". Tuy nhiên, trong suốt những năm của nhiệm kỳ Đại hội IV và Đại hội V, vì chủ quan, duy ý chí, suy nghĩ và hành động có phần đơn giản, nóng vội, không tôn trọng quy luật khách quan, nhận thức về CNXH chưa thật sát với thực tế Việt Nam cho nên chúng ta đã phạm phải một số sai lầm trong việc hoạch định, chủ trương, chính sách và trong chỉ đạo tổ chức thực hiện.

Tháng 12-1986, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã phân tích một cách sâu sắc những sai lầm, khuyết điểm nói trên ; từ đó đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm nhận thức đúng hơn và thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng CNXH. Đại hội đã đưa ra những nhận thức mới về cơ cấu kinh tế, về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên, thừa nhận sự tồn tại khách quan của hàng hóa và thị trường, phê phán triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp và khẳng định phải chuyển hẳn sang hạch toán kinh tế. Đại hội cũng chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với những hình thức kinh doanh thích hợp...

Đại hội VII của Đảng (tháng 6-1991) họp trong bối cảnh chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu bị sụp đổ, Liên Xô đã đi chệch hướng cải tổ và có nguy cơ tan rã ; một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân ta đã có những biểu hiện hoang mang, dao động, thậm chí có người muốn đi con đường khác... Trong bối cảnh như thế, Đại hội đã sáng suốt thông qua"Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội""Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế đến năm 2000".Cương lĩnh khẳng định chúng ta phải kiên trì con đường đi lên CNXH ; xác định rõ sáu đặc trưng của CNXH ở Việt Nam và bảy phương hướng cơ bản chỉ đạo quá trình xây dựng CNXH trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta.

Đại hội VIII của Đảng (tháng 6-1996) trên cơ sở tổng kết thực tiễn đã rút ra những kết luận rất quan trọng : "Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn". "Việc hoạch định và thực hiện đường lối đổi mới những năm qua về cơ bản là đúng đắn, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa".

Tóm lại, đến trước Đại hội IX của Đảng, nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta đã từng bước được bổ sung và hoàn thiện dần.

Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001), lại tiếp tục bổ sung và làm sáng tỏ thêm những vấn đề về : "Mục tiêu của cách mạng, lý tưởng của Đảng". "Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội". "Mô hình kinh tế tổng quát". "Chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế". "Đấu tranh giai cấp và động lực phát triển đất nước". "Nền tảng tư tưởng của Đảng". "Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế" v.v... Có thể nói Đại hội IX đã làm sáng tỏ hơn nữa nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta. Ngay trong năm đầu triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội IX, Hội nghị Trung ương 3 đã ra Nghị quyết về doanh nghiệp nhà nước ; rồi sau đó Hội nghị Trung ương 5 ra hai Nghị quyết về kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân. Đó là một bước hoàn chỉnh mới về chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, thực tế sẽ đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, phát triển và hoàn thiện thêm.

*  *  *

Xác định được hướng đi đúng, lại kiên trì đi theo con đường đã lựa chọn, do đó cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Bác Hồ và của Đảng đã liên tiếp giành được những thắng lợi vẻ vang :

Ngay sau khi mới ra đời, Đảng đã phát động được một phong trào cách mạng rộng lớn mở đầu bằng cuộc bãi công của 5 000 công nhân đồn điền Phú Riềng, phát triển lên thành cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh, chĩa mũi nhọn đấu tranh vào bọn thực dân cướp nước và bọn tay sai bán nước. Tuy cao trào cách mạng 1930 - 1931 bị đàn áp dã man và sau đó rơi vào thoái trào, nhưng ý nghĩa của nó là vô cùng quý giá. Đây là lần đầu tiên chứng minh trong thực tiễn vai trò và khả năng lãnh đạo của Đảng đối với quần chúng. Đây cũng là lần đầu tiên chứng minh trong thực tiễn tính đúng đắn và sức mạnh của hướng đi mới và lực lượng mới của cách mạng Việt Nam.

Thất bại tạm thời không làm Đảng ta nao núng, bó tay. Một loạt công tác rộng lớn được Đảng triển khai nhằm củng cố nội bộ, tập hợp quần chúng, hoàn chỉnh đường lối và sách lược đấu tranh. Nhờ vậy, chỉ sau vài ba năm, phong trào cách mạng lại phục hồi và phát triển ; một cao trào dân chủ được dấy lên kéo dài từ năm 1936 đến năm 1939. Đây có thể nói là sự kiện hiếm thấy ở một nước thuộc địa lúc bấy giờ. Sau đó, phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng vẫn tiếp tục phát triển và trưởng thành. Những năm 1939 - 1945 là những năm sôi động ; toàn Đảng, toàn dân ta tích cực chuẩn bị cho một cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Khi "giờ quyết định vận mệnh dân tộc đã đến", nhân dân ta từ Bắc đến Nam nghe theo lời kêu gọi của Đảng và Bác Hồ Đã đồng loạt vùng lên tổng khởi nghĩa, trong vòng không đầy hai tuần lễ giải phóng toàn bộ Tổ quốc, thành lập nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Cách mạng Tháng Tám đã đưa nhân dân ta từ người nô lệ thành người tự do, làm chủ đất nước, đưa Đảng ta từ một Đảng không hợp pháp thành Đảng lãnh đạo cách mạng, mở ra một kỷ nguyên mới của dân tộc - kỷ nguyên độc lập tự do và CNXH.

Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vừa mới ra đời thì thực dân Pháp quay trở lại xâm chiếm nước ta. Nhờ có đường lối kháng chiến đúng đắn của Đảng, chúng ta đã đánh bại chủ nghĩa thực dân cũ của Pháp, miền Bắc nước ta sạch bóng quân thù.

Khi đế quốc Mỹ hất cẳng Pháp, nhảy vào miền Nam hòng biến miền Nam nước ta thành thuộc địa kiểu mới ; kiên trì con đường đã lựa chọn, Đảng ta chủ trương tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược : xây dựng CNXH ở miền Bắc và tiếp tục hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Nhờ có đường lối đúng đắn đó, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã thắng lợi, miền Nam hoàn toàn được giải phóng, non sông ta thu về một mối, cả nước ta cùng tiến lên xây dựng CNXH. Từ đây, lịch sử dân tộc bước sang một trang mới.

Từ chiến tranh chuyển sang hòa bình xây dựng CNXH là một thử thách lớn đối với sự lãnh đạo của Đảng. Do kiên định con đường đã lựa chọn, cho nên mặc dù lúc đầu có những vấp váp, sai lầm, nhưng sau đó Đảng đã đề ra được đường lối đổi mới đúng đắn. Nhờ có đường lối đổi mới đó, hơn 15 năm qua đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng.

Thực tiễn phong phú và những thành tựu thu được trong tiến trình cách mạng đã cho phép chúng ta một lần nữa khẳng định con đường đi lên CNXH là hoàn toàn đúng đắn. Vì thế "Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh" (3).


(1) Mác - Ăng-ghen : Tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1981, t2, tr 386

(2) Hồ Chí Minh : Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, t 10, tr 128 (3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr 20

SOURCE: TẠP CHÍ CỘNG SẢN SỐ 17 NĂM 2002

Chủ Nhật, 24 tháng 5, 2009

DỊCH VỤ CÔNG

PGS.TS. LÊ CHI MAI

Theo từ điển Le Petit Larousse: "Dịch vụ công là hoạt động v́ lợi ích chung, do một cơ quan nhà nước hoặc tư nhân đảm nhiệm". Định nghĩa này đưa ra cách hiểu chung về dịch vụ công, song ở đây không có sự phân biệt giữa Nhà nước và tư nhân trong việc cung ứng dịch vụ công, do đó không làm rơ được tính chất "công" của dịch vụ này.

Jean-Philippe Brouant và Jacque Ziller: "Một dịch vụ công thường được định nghĩa như một hoạt động do ngành tài chính đảm nhiệm để thỏa măn một nhu cầu về lợi ích chung". Các tác giả này phân tích rằng, ban đầu chỉ có ngành hành chính đảm trách các dịch vụ công. Nhưng các nhiệm vụ về lợi ích chung ngày càng nhiều gấp nội đă dẫn tới việc một số tư nhân cũng tham gia vào việc cung ứng các dịch vụ này. Yếu tố về tổ chức (người trực tiếp cung ứng dịch vụ công) không c̣n là yếu tố quyết định để biết xem một dịch vụ có phải là dịch vụ công hay không. Từ thực tế đó, vấn đế đặt ra không phải ai là người trực tiếp cung ứng một dịch vụ phục vụ lợi ích chung, mà là ở chỗ ai chịu trách nhiệm cuối cùng về việc cung ứng dịch vụ này cho xă hội. Từ đó, các tác giả cho rằng, "một hoạt động lợi ích chung được một pháp nhân công quyền đảm nhiệm được coi là một dịch vụ công" - "đảm nhiệm" ở đây được hiểu như trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm cung ứng dịch vụ công. Như vậy, một hoạt động v́ lợi ích chung do một tư nhân đảm trách không được xem là một dịch vụ công, trừ phi có sự tác động của Nhà nước đến việc cung ứng dịch vụ đó.

Trong trường hợp này, ngành hành chính luôn giữ quyền cũng như nghĩa vụ kiểm tra và theo dơi. Trên thực tế, không có các tiêu chí pháp lư cố định để xác định trong số các hoạt động v́ lợi ích chung, hoạt động nào có tính chất dịch vụ công. Theo các tác giả, có thể đưa ra các tiêu chí như sau:

- Các quy tắc không thuộc phạm vi luật tư;

- Thể hiện đặc quyền về quyền lực của Nhà nước (quyền trưng dụng, quyền đánh thuế...);

- Các điều kiện lập dịch vụ công;

- Pháp nhân kiểm tra tiến tŕnh dịch vụ.

Theo định nghĩa của Jean-Philippe Brouant và Jacque Ziller, ngành hành chính đảm nhiệm việc cung ứng dịch vụ công. Tuy nhiên, phạm trù "ngành hành chính" ở đây có thể dẫn đến sự suy luận rằng, sẽ chỉ có những cơ quan hành chính cung cấp các dịch vụ này. Trên thực tế, các tổ chức kinh tế, sự nghiệp... cũng là những đơn vị cung ứng dịch vụ công.

Theo tác giả Borgeat, Dussault và Ouellet, Nhà nước thực hiện việc cung ứng dịch vụ công dưới 2 phương thức hoạt động cơ bản.

Thứ nhất, Nhà nước - quyền lực công. Hoạt động của Nhà nước theo phương thức này xuất phát từ việc Nhà nước với tư cách là một pháp nhân xă hội, có trách nhiệm thiết lập một trật tự hợp pháp trong xă hội. Các hoạt động này được gọi là "dịch vụ công" và tuân thủ lô-gíc chính trị. Các cơ quan hành chính có trách nhiệm thực thi các hoạt động này.

Thứ hai, Nhà nước - chủ doanh nghiệp. ở đây, Nhà nước nhân danh và v́ lợi ích của xă hội, nhưng với danh nghĩa một chủ thể giống như các chủ thể khác trong xă hội, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật chung. Là chủ thể kinh tế, Nhà nước - chủ doanh nghiệp quan tâm đến của cải vật chất và dịch vụ để phục vụ nhu cầu sử dụng của bản thân Nhà nước hoặc để phân phát cho các khách hàng khác. Các hoạt động theo phương thức này vô cùng phong phú và đương nhiên buộc phải gắn với lô-gíc kinh tế và lợi nhuận. Tuy nhiên, ngay trong lĩnh vực này, các hàng hóa và dịch vụ được Nhà nước cung ứng cũng mang tính chất dịch vụ công. Các cơ quan thực thi các hoạt động theo phương thức này nằm ở vị trí trung gian giữa các đơn vị hành chính và doanh nghiệp tư nhân, với các hoạt động khi th́ gần với các đơn vị hành chính, khi th́ giống với doanh nghiệp tư nhân.

Theo GS. Jim Armstrong, các dịch vụ công mà Chính phủ cung ứng bao gồm:

- Chính sách, pháp luật, hoạt động liên Chính phủ; an ninh quốc gia, duy tŕ các thể chế dân chủ cơ bản;

- Các hoạt động lập quym thi hành pháp luật;

- Các hoạt động kết cấu hạ tầng (bao gồm kết cấu hạ tầng kỹ thuật và kết cấu hạ tầng xă hội);

- Cung ứng phúc lợi xă hội;

- Cung cấp thông tin tư vấn.

Như vậy, chủ thể cung ứng dịch vụ công ở đây là Chính phủ hay các cơ quan trực thuộc Chính phủ (cơ quan hành chính nhà nước các cấp). Các dịch vụ công ở đây bao gồm: các hoạt động có tính chất chính trị mà Chính phủ tiến hành nhằm thiết lập trật tự xă hội theo pháp luật và những hoạt động cung ứng cho xă hội những hàng hóa và dịch vụ phục vụ các nhu cầu chung, thiết yếu của người dân.

Ở Việt Nam, khái niệm dịch vụ công chưa được sử dụng rộng răi. Tuy một số sách báo có đề cập đến khái niệm này, nhưng không đưa ra định nghĩa đầy đủ, hoặc đôi khi mới chỉ đề cập đến một bộ phận của dịch vụ công (các dịch vụ công cộng hoặc dịch vụ công ích). Chẳng hạn, có tác giả cho rằng, "dịch vụ công chỉ là hoạt động của các cơ quan sự nghiệp như giáo dục, y tế, nghiên cứu khoa học, sự nghiệp kinh tế (không phải là loại cơ quan thực hiện chức năng quản lư nhà nước)".

Từ những quan niệm có phần khác biệt nhau nói trên, cần xác định lại một cách đầy đủ: dịch vụ công là ǵì?

Có nhiều chủ thể tham gia vào việc cung ứng các dịch vụ cho xă hội, các chủ thể này rất đa dạng, từ các cơ quan hành chính nhà nước cho đến các doanh nghiệp công và tư, các tổ chức xă hội và từng cá nhân. Thông thường, việc cung ứng dịch vụ cũng theo quy luật cung - cầu trên thị trường. Các dịch vụ được cung ứng đều có giá trị và giá trị sử dụng. Về nguyên tắc, các chủ thể cung cấp dịch vụ cũng như các chủ thể kinh doanh các hàng hóa khác đều phải thu tiền của người sử dụng dịch vụ để bù đắp hao phí bỏ ra và có lợi nhuận. Người sử dụng dịch vụ phải trả tiền tùy theo số lượng và chất lượng dịch vụ được hưởng.

Song, có những loại dịch vụ rất quan trọng phục vụ nhu cầu chung của cả cộng đồng, nhưng không một tư nhân nào muốn cung ứng, v́ nó không mang lại lợi nhuận, hoặc v́ tư nhân đó không có đủ quyền lực và vốn liếng để tổ chức việc cung ứng, chẳng hạn như dịch vụ tiêm chủng, cứu hỏa, thoát nước... Đó lại là những loại dịch vụ tối cần thiết phục vụ cho cuộc sống an toàn và b́nh thường của xă hội. Đối với những loại dịch vụ này, không có ai khác ngoài Nhà nước có khả năng và trách nhiệm cung ứng cho nhân dân.

Cũng có những loại dịch vụ mà tư nhân có thể cung cấp, nhưng cung cấp không đầy đủ, hoặc thị trường tư nhân tạo ra sự bất b́nh đẳng trong xă hội, gây ra t́nh trạng độc quyền, đẩy giá cả lên cao, làm ảnh hưởng tới lợi ích của người tiêu dùng, chẳng hạn như dịch vụ y tế, giáo dục, điện, nước sinh hoạt... Khi đó, Nhà nước phải có trách nhiệm trực tiếp cung ứng hoặc điều tiết, kiểm soát thị trường tư nhân nhằm bảo đảm cho việc cung ứng dịch vụ đó được b́nh thường, phục vụ những quyền cơ bản của con người.

Như vậy, có những loại dịch vụ tối cần thiết cho cuộc sống vật chất và tinh thần của con người mà tư nhân không thể cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ, không bảo đảm lợi ích của xă hội, lúc đó, Nhà nước với tư cách là một tổ chức công quyền có trách nhiệm cung ứng hoặc điều tiết, kiểm soát việc cung ứng các dịch vụ này nhằm đảm bảo sự ổn định, công bằng và hiệu quả của nền kinh tế.

Trong đời sống xă hội cũng tồn tại một dạng dịch vụ đặc biệt khác mà không một tư nhân nào ngoài Nhà nước đứng ra cung ứng, cho dù tư nhân đó có nguồn lực to lớn đến đâu. Loại dịch vụ này gắn liền với chức năng cai trị của Nhà nước hoặc chức năng quản lư nhà nước. Các cơ quan trong bộ máy nhà nước có nhiệm vụ ban hành chính sách, văn bản pháp quy, quản lư các công việc của đời sống xă hội, bảo đảm cho xă hội phát triển có kỷ cương, trật tự. Tất cả những công việc nói trên thuộc về chức năng vốn có của bộ máy hành chính nhà nước. Nói cách khác, nhân dân tổ chức ra Nhà nước, trao quyền lực cho Nhà nước để Nhà nước thực thi những nhiệm vụ của một cơ quan công quyền, dùng quyền lực công để cai quản toàn bộ xă hội. Những quyền lực này không thể giao cho bất kỳ một cá nhân hoặc tổ chức tư nhân nào, dù tổ chức đó có tiềm lực lớn đến đâu. Như vậy, thông qua việc thực hiện chức năng quản lư nhà nước vốn có của ḿnh, Nhà nước có trách nhiệm cung cấp cho xă hội những dịch vụ mà không một tư nhân nào có thể đứng ra cung ứng.

Những dịch vụ Nhà nước đứng ra bảo đảm việc cung ứng b́nh thường cho xă hội được gọi là dịch vụ công.
Các dịch vụ công có đặc điểm sau đây:

1. Là những hoạt động có tính chất xă hội, phục vụ lợi ích chung của cả cộng đồng. Đây là những dịch vụ phục vụ các lợi ích tối cần thiết của xă hội để bảo đảm cuộc sống được b́nh thường và an toàn.

2. Là những hoạt động do các cơ quan công quyền hay những chủ thể được chính quyền ủy nhiệm đứng ra thực hiện.

3. Để cung ứng các dịch vụ công, các cơ quan nhà nước và tổ chức được ủy nhiệm cung ứng có sự giao tiếp với người dân ở những mức độ khác nhau khi thực hiện cung ứng dịch vụ.

4. Việc trao đổi dịch vụ công thông qua quan hệ thị trường đầy đủ. Thông thường, người sử dụng dịch vụ công không trực tiếp trả tiền, hay nói đúng hơn là đă trả tiền dưới h́nh thức đóng thuế vào ngân sách nhà nước để Nhà nước tổ chức việc cung ứng một cách đều đặn như một sự "thỏa thuận trước". Nhưng cũng có những dịch vụ mà người sử dụng vẫn phải trả thêm một phần hoặc toàn bộ kinh phí; tuy nhiên, đối với các loại dịch vụ này, Nhà nước vẫn có trách nhiệm bảo đảm việc cung ứng không nhằm vào mục tiêu thu lợi nhuận.

5. Mọi người dân (bất kể đóng thuế nhiều hay ít, hoặc không phải đóng thuế) đều có quyền hưởng sự cung ứng dịch vụ công ở một mức độ tối thiểu, với tư cách là đối tượng phục vụ của chính quyền. Lượng dịch vụ công cộng mà mỗi người tiêu dùng không phụ thuộc vào mức thuế mà người đó đóng góp.

6. Khác với những loại dịch vụ thông thường được hiểu là những hoạt động phục vụ không tạo ra sản phẩm mang h́nh thái hiện vật, dịch vụ công là những hoạt động của bộ máy nhà nước phục vụ các nhu cầu thiết yếu của xă hội, bất kể các sản phẩm được tạo ra có h́nh thái hiện vật hay phi hiện vật.

7. Xét trên giác độ kinh tế học, dịch vụ công là các hoạt động cung ứng cho xă hội những hàng hóa công cộng. Theo nghĩa hẹp, hàng hóa công cộng là loại hàng hóa mà khi nó đă được tạo ra th́ khó có thể loại trừ ai ra khỏi việc sử dụng nó; và việc tiêu dùng của mỗi người không làm giảm lượng tiêu dùng của người khác. Hàng hóa công cộng mang lại lợi ích không chỉ cho những người mua nó, mà cho cả những người không phải trả tiền cho hàng hóa này. Đó là nguyên nhân dẫn đến chỗ Chính phủ trở thành người sản xuất hoặc bảo đảm cung cấp các loại hàng hóa công cộng. C̣n theo nghĩa rộng, hàng hóa công cộng là "những hàng hóa và dịch vụ được Nhà nước cung cấp cho lợi ích của tất cả hay đa số nhân dân". Dịch vụ công là những hoạt động cung ứng các hàng hóa công cộng xét theo nghĩa rộng, bao gồm cả những hàng hóa có tính cá nhân thiết yếu được Nhà nước bảo đảm cung ứng như điện, nước sinh hoạt...

Tóm lại, dịch vụ công là tất cả những ǵì mà Nhà nước có trách nhiệm cung ứng cho xă hội.

Như vậy, dịch vụ công là hoạt động của các cơ quan nhà nước trong việc thực thi chức năng quản lư hành chính nhà nước và bảo đảm cung ứng các hàng hóa công cộng phục vụ nhu cầu (lợi ích) chung thiết yếu của xă hội.

SOURCE: TẠP CHÍ BẢO HIỂM XÃ HỘI SỐ 3 NĂM 2008

Thứ Sáu, 22 tháng 5, 2009

TĂNG CƯỜNG BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ Ở VIỆT NAM

PGS.TS. PHẠM QUỐCTRUNG

Ngày nay, tri thức đã trở thành một “nguồn của cải mới”, động lực mới tạo ra sự thịnh vượng trong xã hội. Lợi thế cạnh tranh chủ yếu của mỗi nền kinh tế ngày càng phụ thuộc vào khả năng phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất. Xu thế này đã khẳng định tài sản trí tuệ và quyền sở hữu tài sản trí tuệ ngày càng trở nên quan trọng, bảo hộ sở hữu trí tuệ (SHTT) được xem là một nguyên tắc cơ bản trong sự vận động của nền kinh tế thế giới. Thực tế này cũng đặt ra yêu cầu phải gia tăng mối quan tâm tới vấn đề SHTT cả trên phương diện lý luận lẫn thực tiễn cho mỗi quốc gia nếu muốn tồn tại và hội nhập thành công. 

Vai trò và ý nghĩa của SHTT đối với phát triển kinh tế - xã hội

Có thể khái quát vai trò của SHTT đối với phát triển kinh tế - xã hội trên những khía cạnh sau:

Thứ nhất, SHTT là nhân tố đem lại sự tăng trưởng kinh tế ngoạn mục cho chủ thể sở hữu và xã hội

Nhìn vào lịch sử phát triển của các quốc gia, nhất là các nước công nghiệp phát triển, SHTT được đánh giá là loại tài sản chiếm vị trí quan trọng nhất đối với sự tăng trưởng của đất nước. Với mỗi phát minh, sáng chế ra đời và được bảo hộ, chủ thể sở hữu sản phẩm trí tuệ đó không những có được tỷ lệ tiền bản quyền cao hơn và có giá trị thị trường cao hơn nhiều lần so với các tài sản vô hình khác, mà chính người mua quyền SHTT đó và người xin cấp giấy phép sử dụng cũng vui lòng trả nhiều tiền hơn do có sự bảo hộ. Việc bảo hộ này nhằm giảm rủi ro trong các giao dịch thương mại về quyền SHTT, nhưng đồng thời cũng tạo nguồn thu cho nhà nước thông qua việc cung cấp các hiệp định bảo hộ và nhân lên nhiều lần giá trị sử dụng của các tài sản trí tuệ đã được bảo hộ đó bằng việc thương mại hoá chúng, chính việc thương mại hoá các tài sản trí tuệ đã đem lại cho chủ thể sở hữu cũng như những người mua quyền sử dụng tài sản trí tuệ đó những lợi ích kinh tế. Ví như với việc mỗi năm có đến hàng trăm các phát minh, sáng chế mới ra đời, NOKIA không chỉ thu được lợi nhuận khổng lồ từ những sản phẩm trí tuệ mới này được cung cấp bởi chính hãng mà còn thu được nhiều tỷ USD từ việc bán bản quyền. Theo tài liệu của Tổ chức SHTT thế giới thì tổng thu nhập từ bản quyền về sáng chế trên toàn thế giới tăng từ 10 tỷ USD năm 1990 lên 110 tỷ USD năm 2000; riêng hãng máy tính IBM (Mỹ) năm 2000 đã thu được 1,7 tỷ USD.

Thứ hai, SHTT là công cụ cạnh tranh hữu hiệu cho doanh nghiệp cũng như nền kinh tế quốc gia trong hội nhập

Hiện nay, với mỗi quốc gia, doanh nghiệp, năng lực SHTT là một trong những năng lực nội sinh quan trọng hàng đầu để phát triển bền vững. Quốc gia, doanh nghiệp nào có được càng nhiều quyền SHTT thì năng lực cạnh tranh của quốc gia, doanh nghiệp đó càng cao.

Với các nước đang phát triển, năng lực cạnh tranh thường thấp, khả năng tiếp cận thị trường hạn chế, cho nên để có thể phát triển bền vững và hội nhập hiệu quả, cần thiết phải đánh giá đúng vị trí quan trọng của SHTT. Cách tốt nhất là phải tiếp cận các chuẩn mực quốc tế về SHTT nhằm xây dựng hệ thống SHTT có hiệu quả. Điều đó làm cho hoạt động SHTT xét trên phạm vi quốc gia ngày càng có khuynh hướng tiến gần hơn tới chuẩn mực chung của thế giới.

Thứ ba, SHTT là phương tiện đảm bảo sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia cũng như từng doanh nghiệp

Bất kỳ tài sản hữu hình nào cũng đều có giới hạn và cùng với thời gian, không gian khối lượng và giá trị của các tài sản hữu hình này không chỉ bị thu hẹp về quy mô, số lượng mà còn có khả năng bị thay thế bởi các sản phẩm mới do tri thức tạo ra. Do đó, sở hữu các tài sản hữu hình là sở hữu cái có giới hạn, còn sở hữu tri thức, trí tuệ của nhân loại là sở hữu cái vô hạn, vì vậy sẽ là vô cùng bền vững nếu chúng ta biết khai thác và sử dụng một cách hiệu quả - có thể nói SHTT là sở hữu một thứ tài sản đặc biệt, khi sử dụng không những không mất đi mà còn có khả năng kiến tạo những sản phẩm trí tuệ cao hơn, là những tiền đề cho sự phát triển mạnh mẽ và bền vững đối với những chủ thể sở hữu và xã hội.

Việt Nam đã ký kết nhiều điều ước quốc tế (song phương và đa phương) về bảo vệ quyền SHTT. Hiện nay, chúng ta đã là thành viên của các Điều ước quan trọng như Công ước Paris, Thoả ước Madrid, Nghị định thư Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hoá, Hiệp ước hợp tác Patent, Công ước Benre về bản quyền... và đặc biệt là Hiệp định TRIPS. Ngoài ra, các Điều ước quốc tế đa phương và song phương liên quan đến việc khiếu nại, xét xử, trọng tài, thi hành bản án, quyết định, tương trợ tư pháp... giữa Việt Nam và các nước là những cơ sở quan trọng trong công tác thực thi quyền SHTT ở Việt Nam.

Thực tiễn cho thấy, lợi nhuận lớn thường đổ dồn về những doanh nghiệp nào biết quan tâm đầu tư và khai thác sản phẩm trí tuệ của mình hay những quốc gia sở hữu nhiều phát minh, sáng chế của nhân loại. Vì lẽ đó mà hàng năm, hãng sản xuất danh tiếng như Nokia đầu tư hàng tỷ USD và huy động nhiều ngàn lao động trí tuệ trong nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới, mỗi năm hãng này đệ trình đăng ký bảo hộ sáng kiến và giải pháp mới cho 500 pháp minh các loại.

Thứ tư, tuân thủ hệ thống quản lý SHTT là cách thức để các nước đang phát triển tiếp cận bền vững hơn với các hoạt động đầu tư, chuyển giao công nghệ và hội nhập hiệu quả.

Việc tạo dựng và củng cố giá trị của mọi đối tượng SHTT là một quá trình đầu tư tốn kém về vật chất và trí tuệ. Do vậy, việc sao chép, mô phỏng, thậm chí đánh cắp nguyên vẹn các thành quả sáng tạo kỹ thuật - kinh doanh của đối thủ cạnh tranh là biện pháp hấp dẫn nhất để đạt mục tiêu lợi nhuận và chiến thắng. Nguy cơ chiếm đoạt các sản phẩm trí tuệ là nguy cơ thường xuyên và ngày càng nghiêm trọng trong các nền kinh tế công nghiệp hoá. Bởi vậy, việc ngăn chặn nguy cơ này là vấn đề ám ảnh đối với các nhà đầu tư nước ngoài, họ sẽ chỉ chấp nhận chuyển giao công nghệ và thực hiện các biện pháp đầu tư, nếu họ nhận thấy đủ cơ hội khai thác an toàn, hiệu quả công nghệ đó ở quốc gia dự định đầu tư.

Cho nên, sẽ là thiển cận, nếu cho rằng vì lạc hậu về kỹ thuật và công nghệ mà không cần phải có một sự bảo hộ công nghệ nào ở các nước đang phát triển. Cần thấy rằng, các nhà đầu tư nước ngoài có xu hướng lo sợ rằng bảo hộ SHTT lỏng lẻo sẽ dẫn đến việc thiếu kiểm soát đối với công nghệ được chuyển giao và như vậy công nghệ chuyển giao này sẽ dễ trở thành mục tiêu bị vi phạm bản quyền. Vì lẽ đó, xác lập được một hệ thống bảo hộ SHTT hiệu quả và việc tuân thủ hệ thống quản lý bảo hộ SHTT một cách nghiêm túc sẽ là một điều kiện tiên quyết tác động đến quyết định đầu tư và chuyển giao của các công ty nước ngoài.

Thứ năm, một hệ thống bảo hộ quyền SHTT hiệu quả là một yếu tố để chống lại nguy cơ tụt hậu và phát triển đất nước

Kinh nghiệm phát triển của Nhật Bản cho thấy, một quốc gia hoàn toàn có thể phát triển mạnh mẽ mà không nhất thiết phải có nguồn lực vật chất dồi dào, mà vấn đề là nhận thức được giá trị thực sự của tài sản trí tuệ và việc bảo hộ các tài sản trí tuệ đó. Cựu Thủ tướng Nhật Bản Tanzan Ishibashi đã từng nói: “ Tôi tin chắc rằng, đây là bí quyết phát triển công nghiệp của chúng tôi từ thời Meiji. Chỉ trong một nước đã nhận ra giá trị thực sự của hệ thống bảo hộ sáng chế và quyết tâm dùng mọi sức lực của nó để xây dựng hệ thống đó, người ta mới có thể hy vọng công nghiệp phát triển ”.

Một khi cơ sở hạ tầng và khả năng kỹ thuật cho việc cải tiến công nghệ đã được thiết lập ở một nước, nhất là ở các nước đang phát triển, hệ thống bảo hộ sáng chế sẽ thành một yếu tố thúc đẩy sự nghiệp cải tiến kỹ thuật. Bởi vậy, câu hỏi đặt ra cho các nước đang phát triển không phải là có thiết lập hệ thống bảo hộ SHTT hay không, mà phải là thiết lập như thế nào và vào lúc nào trong quá trình phát triển kinh tế, kỹ thuật của đất nước sẽ là phù hợp cho việc áp dụng một hệ thống bảo hộ toàn diện và hiệu quả.

Bảo hộ quyền SHTT ở Việt Nam

Việt Nam bắt đầu tham gia với cộng đồng quốc tế về vấn đề SHTT khá sớm. Từ năm 1949, Việt Nam đã tham gia Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp và Thoả ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hoá. Đến năm 1976, Việt Nam tham gia công ước Stockholm về thành lập tổ chức SHTT thế giới. Nhưng quá trình tham gia và xác lập quyền SHTT của Việt Nam mới đi vào thực chất kể từ khi nền kinh tế Việt Nam tích cực hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, đặc biệt là khi Việt Nam bắt đầu thực hiện tiến trình gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).

Theo đó, nhiều các văn bản, quy phạm pháp luật đã được ban hành nhằm hiện thực hoá việc xác lập quyền SHTT trong điều kiện Việt Nam. Bộ Luật Dân sự năm 1995 đã dành phần IV với 61 điều đề cập đến vấn đề SHTT và chuyển giao công nghệ, tiếp đó là hàng loạt các văn bản pháp quy về SHTT đã được ban hành. Ví dụ như Nghị định 63/CP của Chính phủ ban hành ngày 24/10/1996 về việc bảo hộ sáng chế, các giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu cũng như xuất xứ hàng hoá; Nghị định số 76/CP ngày 29/11/1996 nhằm giải thích các quy định nêu tại phần IV bộ Luật Dân sự; Nghị định số 54/2000/NĐ-CP ngày 3/10/2000 quy định về việc bảo hộ bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới sở hữu công nghiệp; Nghị định 6/2001 bổ sung các quy định về đăng ký quyền đối với sở hữu công nghiệp (kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, các phát minh, sáng chế, tên gọi xuất xứ hàng hoá); Nghị định 13/2001/NĐ-CP ngày 20/4/2001 về bảo hộ giống cây trồng mới; Công ước Berne chính thức có hiệu lực trên lãnh thổ Việt Nam từ 10/2004 ...

Với tư cách là thành viên chính thức của WTO, Việt Nam đã và đang tiêu chuẩn hoá và thực hiện các cam kết về khung pháp luật bảo vệ quyền SHTT. Trong đó có 2 vấn đề cơ bản mà Việt Nam phải thực hiện trong hoạt động này đó là: (i) phải có một khung pháp lý về SHTT hoàn thiện, đầy đủ và đạt tiêu chuẩn theo quy định của Hiệp định TRIPS và tham gia một loạt các điều ước quốc tế khác như bản quyền, sử dụng tín hiệu vệ tinh...; và (ii) Việt Nam phải có một hệ thống thực thi quyền SHTT hiệu quả.

Cho đến hiện nay, nếu so với yêu cầu của TRIPS thì về cơ bản hệ thống bảo hộ quyền SHTT của Việt Nam đã được hình thành tương đối đầy đủ, Luật SHTT được ban hành năm 2005, có hiệu lực từ 01/7/2007 đã thay thế toàn bộ các Nghị định và văn bản hướng dẫn về từng lĩnh vực của SHTT trước đó, đồng thời cũng thống nhất và tập hợp các quy định riêng lẻ đó vào trong Luật SHTT với sự phân định rõ ràng thành 3 lĩnh vực: bản quyền, sở hữu công nghiệp và giống cây trồng.

Tuy nhiên, trên thực tế việc thực thi quyền SHTT còn nhiều hạn chế, hiệu lực của hệ thống các quy định về bảo hộ quyền SHTT còn thấp, tính minh bạch và sự nghiêm minh trong thực thi luật còn nhiều vấn đề cần xem xét... dẫn đến trình trạng vi phạm, xâm phạm quyền SHTT đang diễn ra khá phổ biến. Hầu như mọi chủng loại sản phẩm hàng hoá đều có hàng nhái, hàng có chứa yếu tố vi phạm quyền sở hữu.. .Do vậy, vấn đề đặt ra là cần có một định hướng rõ ràng, hiệu quả nhằm nâng hiệu lực của việc thực thi quyền SHTT trong thực tế. Trong phạm vi bài viết này, tác giả có một số kiến nghị sau nhằm tăng hiệu lực của việc thực thi quyền SHTT tại Việt Nam:

Một là, cần có mức xử phạt đủ nặng về mặt kinh tế và pháp lý đối với các hành vi vi phạm, xâm phạm quyền SHTT để tăng tính nghiêm minh và thực thi có hiệu quả các quy định của Luật SHTT.

Hai là, các cơ quan chức năng phải chi tiết, cụ thể từng quy định đã được ban hành và hình thành khung mức phạt cụ thể cho từng hành vi vi phạm, xâm phạm.

Ba là, phải xây dựng được hệ thống cơ chế giám sát mang tính liên ngành nhằm phòng, chống một cách hiệu quả các hành vi vi phạm, xâm phạm quyền SHTT. Trong đó lưu ý đến việc chuẩn bị đủ lực lượng thực hiện và phải thực hiện một cách nghiêm túc, thường xuyên, tránh tình trạng phát động theo phong trào.

Bốn là, thúc đẩy thương mại hoá các hoạt động SHTT, tuyên truyền và nâng cao nhận thức về giá trị kinh tế và những lợi ích hợp pháp của việc thương mại hoá các sản phẩm trí tuệ cũng như việc tuân thủ nghiêm túc Luật SHTT.

Năm là, ngoài việc tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp quy về SHTT, cần quy định rõ cơ quan đầu mối quan lý và có chế tài xử lý thích hợp đối với các vi phạm của cả người thực thi cũng như người quản lý việc thực thi.

Sáu là, để phát triển bền vững trong hội nhập và hội nhập hiệu quả trên phương diện bảo vệ hợp pháp quyền SHTT, cần đẩy mạnh đào tạo và đào tạo theo quy chuẩn quốc tế nguồn nhân lực về SHTT.

Sự tồn tại của hệ thống bảo hộ công nghệ đóng vai trò quan trọng trong các quyết định chuyển giao công nghệ trong hoạt động đầu tư trực tiếp. Một hệ thống bảo hộ có hiệu quả ở một nước đang phát triển sẽ tạo được niềm tin đối với nhà đầu tư, đặc biệt là trong các quyết định chuyển giao công nghệ, đồng thời sẽ góp phần cải thiện vị thế của quốc gia đó trong cuộc cạnh tranh khu vực cũng như quốc tế về vốn đầu tư và chuyển giao công nghệ. Bảo hộ SHTT như vậy sẽ trở thành động lực chuyển giao và ứng dụng công nghệ ở các nước đang phát triển đồng thời cũng là cách thức để tiến trình hội nhập quốc tế của các nước đang phát triển hiệu quả hơn, vững vàng hơn./.

SOURCE: TẠP CHÍ KINH TẾ VÀ DỰ BÁO SỐ 8 (424) THÁNG 4 NĂM 2008

LUẬT PHÁP CÁC NƯỚC: ĐƯỢC CẢI BIÊN TÁC PHẨM NẾU GÂY CƯỜI

NGUYỄN HẢI VÂN (Pháp)

Sửa đổi lời bài hát, biếm họa tranh của các họa sĩ, đóng nhại nhân vật của một tác phẩm sân khấu... là chuyện thường thấy trong sinh hoạt đời thường. Những chế, nhại này xét theo vẻ bề ngoài như là vô thưởng vô phạt, vì chủ yếu cũng chỉ để vui cười. Thông thường, ít ai quan tâm đến khía cạnh pháp lý của hành vi này. Trong chừng mực các quy định pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ của VN, cải biên tác phẩm nghệ thuật chính là đang xâm phạm quyền tác giả, chí ít là quyền về nhân thân của tác giả.

Tạo sự vui vẻ cho công chúng

Pháp luật một số nước trên thế giới cho phép cải biên và có những quy định chặt chẽ cụ thể trong luật hoặc trong án lệ. Xin giới thiệu một ví dụ trong Luật sở hữu trí tuệ của Pháp. Luật này quy định khi một tác phẩm được công bố, tác giả không thể ngăn cấm việc nhại, chế, cải biên tác phẩm đó bởi vì tuân theo quy luật cần thiết, tính đa dạng của sở thích.

Tác phẩm cải biên khác với tác phẩm gốc có thể là do có thêm tính khôi hài hay tính phê phán (trên tinh thần xây dựng). Nếu cải biên dựa trên cơ sở quyền tự do bày tỏ ý kiến mà làm tổn hại, đôi khi nghiêm trọng, đến quyền của tác giả về tài sản cũng như tinh thần (nhân thân) thì vẫn được cho phép như một ngoại lệ.

Khi cải biên, cần tuân thủ một số điều kiện. Ðó là thiện chí tạo sự vui vẻ cho công chúng, do đó tác phẩm cải biên không thể gây buồn phiền. Nói cách khác, mục đích gây cười phải được thể hiện thật rõ ràng và đặc biệt phải tránh xa sự phỉ báng. Nhìn ở góc độ lập pháp, thiện chí này được coi là điều kiện cần để thực hiện cải biên. Xét theo các án lệ, khi mọi hành vi bắt chước các tác phẩm nghệ thuật gây cười được sẽ không bị chế tài.

Trong vụ án "Tarzoon, niềm tủi hổ của núi rừng", tòa đã dựa theo ngoại lệ quy định của luật 1957, bác đơn kiện của đạo diễn Picha vì các nhân vật chính được xây dựng ngược hẳn với tính cách của nhân vật chính trong truyện gốc. Ví dụ Tarzan thì mạnh mẽ, đẹp trai, can đảm, cao thượng... thì Tarzoon thấp bé, xấu trai, bẳn tính. Nhân vật vợ cũng được xây dựng theo cung cách đó. Trong khi Jane, vợ Tarzan luôn dịu dàng, trung thành thì June, vợ Tarzoon như mụ hó lúc nào cũng la ó, đành hanh, thích chỉ huy, lại lẳng lơ...

Chính sự khác biệt có thể nói là sự đối ngược của hai tính cách, hai ngoại hình tạo nên sự khác biệt giữa tác phẩm gốc và tác phẩm nhại theo và cũng dựa trên yếu tố gây cười mà bộ phim đó được coi là cải biên hợp pháp.

Quyền sở hữu trí tuệ là một quyền quan trọng đối với cá nhân cũng như pháp nhân (các tổ chức, doanh nghiệp) nhưng trên thực tế chưa được đánh giá và bảo vệ đúng, mặc dù Luật sở hữu trí tuệ VN có hiệu lực hơn hai năm.

Vụ tranh chấp giữa những người thừa kế Margaret Mitchell, tác giả Cuốn theo chiều gió và Régine Desforges (nhà văn Pháp), tác giả Xe đạp xanh (đã dựng thành phim và chiếu trên truyền hình VN) là một ví dụ khác về việc được phép cải biên. Tòa phúc thẩm Paris đã phán xử rằng các ý tưởng của Cuốn theo chiều gió không được bảo hộ.

Cho dù Xe đạp xanh được coi là phóng tác của Cuốn theo chiều gió nhưng tác giả Desforges đã giữ tác phẩm của mình có khoảng cách nhất định với tác phẩm đàn chị, bằng cách cho nhân vật nữ chính của mình đọc Cuốn theo chiều gió rồi hâm mộ nhân vật Scarlet và lấy đó làm gương sống giàu nghị lực. Ðiểm nhấn này tuy nhỏ nhưng đã làm tác phẩm sau (Xe đạp xanh) khác so với tác phẩm trước (Cuốn theo chiều gió).

Trong vụ tranh chấp này, việc tác phẩm sau có gây nhầm lẫn hay không lại không còn quan trọng, chủ yếu là "thiện chí thích đùa" mà tác giả Desforges dành cho tác phẩm nổi tiếng của Margaret Mitchell!

Phê phán sinh hoạt chính trị - xã hội

Tuy vậy, trên thực tế có trường hợp cải biên vẫn được chấp nhận khi hoàn toàn không có một ý định gây cười dù nhỏ nào. Ðó là vụ kiện Les feuilles mortes. Họa sĩ thiết kế sân khấu Jacques Faizant đã vẽ biếm họa Yves Montand, trong buổi ca nhạc tổ chức nhân ngày ca sĩ lừng danh đó qua đời. Hình biếm họa mô tả Yves Montand đang hát trên sân khấu, và họa sĩ này đã sửa chút ít lời bài hát Les feuilles mortes với ý định thể hiện sự tiếc thương ca sĩ được nhiều yêu mến này.

Tòa án thẩm quyền rộng Paris(*) ra phán quyết không coi "sự vay mượn lời ca" này là một hình thức cải biên hợp pháp vì không có tính hài hước. Nhưng tòa phúc thẩm Paris lại cho rằng mục đích chính của tác phẩm cải biên là để vinh danh người quá cố và không hề gây nhầm lẫn với tác phẩm gốc, do đó việc cải biên hoàn toàn hợp pháp.

Cho tới nay, theo thực tiễn xét xử, luật của Pháp đã cho một kết luận mới. Trước đây, việc cải biên một tác phẩm nghệ thuật không bị xử phạt chỉ với một điều kiện duy nhất là có thiện chí gây cười. Nhưng giờ thì khác, bởi vì cải biên để phê phán sinh hoạt chính trị - xã hội, thậm chí không gây cười, cũng đã được phép, thông qua các án lệ.

Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng nếu cải biên mang tính chất bôi nhọ, phỉ báng nhằm vào tác giả thì sẽ không được khoan nhượng, nhất là khi với ít nhiều ác ý. Trong trường hợp này, tòa án sẽ xem xét việc cải biên có yếu tố kiếm lợi (động cơ) hay không và mức kiếm lợi bao nhiêu để ra mức xử phạt..

(*) Tribunal de grande instance: tòa dân sự phụ trách xét xử những vụ tranh chấp có giá trị trên 10.000 euro.

SOURCE: BÁO TUỔI TRẺ

Trích dẫn từ:

http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=285174&ChannelID=6

Thứ Năm, 14 tháng 5, 2009

VĂN HÓA DOANH NGHIỆP THỜI HỘI NHẬP

MINH HƯƠNG

Ngày nay, văn hoá doanh nghiệp đang được coi là một loại tài sản vô hình. Loại tài sản này có thể đưa doanh nghiệp ngày càng làm ăn phát đạt, nhưng nếu chúng ta không biết phát huy thì nó sẽ đưa doanh nghiệp nhanh chóng đến chỗ phá sản. Vậy văn hoá doanh nghiệp là gì? Có hay không văn hoá doanh nghiệp ở các nước tiên tiến trên thế giới? Vận dụng nó ra sao trong mỗi doanh nghiệp của Việt Nam thời hội nhập? Làm gì để phát huy loại tài sản quý giá này?... là những vấn đề mà tác giả muốn chia sẻ trong bài viết.

Văn hoá doanh nghiệp

Khái niệm về văn hoá doanh nghiệp đã được đưa ra bàn từ lâu, và cho đến nay vẫn đang có nhiều cách hiểu khác nhau, đó là: Văn hoá doanh nghiệp là lực lượng tinh thần, tinh thần ở đây là toàn bộ sự phấn kích, cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh theo đúng nghĩa lành mạnh; Văn hoá doanh nghiệp là lực lượng vật chất, cách này cho rằng, nhờ có cách ứng xử văn hoá mà doanh nghiệp tạo ra được một lượng vật chất nhiều hơn, tốt hơn; Văn hoá doanh nghiệp là lực lượng vất chất và tinh thần của doanh nghiệp. Cách này cho rằng, sự kết hợp hài hoà các yếu tố cần thiết trong mỗi doanh nghiệp để tạo ra bầu không khí làm việc hăng say của người lao động, tạo ra nhiều của cải vật chất, vật chất được tạo ra một phần sử dụng vào tái tạo sức lao động để mọi người lại tiếp tục lao động sáng tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng tốt hơn, và số lượng nhiều hơn. Bằng những quan niệm khác nhau mà người ta ứng xử nó cũng khác nhau trong chính mỗi doanh nghiệp.

Để hiểu đúng văn hoá doanh nghiệp chúng ta cần có điểm xuất phát đúng, tức là phải thừa nhận hai yếu tố cấu thành, đó là: Văn hoá, theo đó là văn hoá phải gắn với doanh nghiệp. Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như ý chủ biến viết:

Văn hoá doanh nghiệp là toàn bộ các giá trị văn hoá được gây dựng nên trong suốt quá trình hình thành, xây dựng và phát triển của mỗi doanh nghiệp trong môi trường chung đó là những quan niệm, tập quán, truyền thống của dân tộc, tác động của môi trường tới hoạt động của doanh nghiệp, tác động này chi phối tình cảm, lý trí, cách suy nghĩ và hành vi ứng xử của mỗi thành viên trong doanh nghiệp và trong cộng đồng doanh nghiệp với người sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp.

Văn hoá doanh nghiệp còn được coi là nền tảng để phát triển doanh nghiệp, được cấu thành bởi mục đích kinh doanh và phương pháp kinh doanh. Là tổng hoà các quan niệm về giá trị được tạo ra từ đạo đức, ý tưởng kinh doanh, triết lý kinh doanh, mục đích kinh doanh, phương pháp kinh doanh và hiệu quả phục vụ cho chính những con người cần cù lao động sáng tạo để tạo ra ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội… Dù có diễn giải thế nào thì văn hoá doanh nghiệp vẫn phải dựa trên cơ sở là cách thức ứng xử của mỗi thành viên trong doanh nghiệp mà biểu hiện của nó là các hành vi quản lý lao động, sáng tạo lao động và các hoạt động của doanh nghiệp phải phù hợp với các quy định của pháp luật trong mặt bằng chung và của hiệp hội ngành nghề nói riêng.

Văn hoá doanh nghiệp ở các nước tiên tiến trên thế giới

Theo các nhà nghiên cứu cho biết: Hầu hết các doanh nghiệp thành công trên thế giới đều duy trì, gìn giữ nếp văn hoá doanh nghiệp của mình thành nếp sinh hoạt truyền thống để giáo dục cho cán bộ, công nhân, người lao động của doanh nghiệp đó. Điều cần nói đến ở đây là sự khác biệt giữa các nền văn hoá của các dân tộc có khác nhau nên văn hoá doanh nghiệp cũng khác nhau, theo đó là tác động ảnh hưởng cũng khác nhau đến người lao động, người sử dụng các thành quả lao động đó cũng khác nhau.

Trên thực tế, mỗi nền văn hoá khác nhau đều đưa đến nhận thức khác nhau và tác động đến hệ thống văn hoá doanh nghiệp khác nhau. ở Nhật Bản, những người lao động thường làm việc suốt đời cho một công ty, công sở, họ được xếp hạng theo trình độ tay nghề và bề dày công tác. Chính văn hoá doanh nghiệp kiểu Nhật Bản đã tạo cho doanh nghiệp một không khí làm việc dựa trên cơ sở quan hệ với các thành viên như trong một gia đình, họ gắn bó với nhau chặt chẽ trong quá trình làm việc và sinh hoạt. Lãnh đạo doanh nghiệp luôn quan tâm đến các thành viên về mọi mặt, cả về vật chất và tinh thần, người lao động được tạo điều kiện để học hỏi và đào tạo từ nguồn vốn của doanh nghiệp.

Còn tại Mỹ và các nước phương Tây, do việc quyết định số phận của một doanh nghiệp là các cổ đông. Cổ đông thì luôn yêu cầu nhà quản lý phải nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp thông qua việc nâng cao chỉ số cổ tức. Vì mục đích lợi nhuận được đặt lên hàng đầu nên văn hoá doanh nghiệp được đặt sang hàng thứ yếu, và vì vậy ngày càng xuất hiện nhiều người bị thất nghiệp do không có công việc làm. Đây là mặt trái, nhưng qua đó cũng cho thấy, người lao động dù bất cứ sở lĩnh vực nào cũng phải luôn cố gắng, tự nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề để đảm bảo có công ăn việc làm, đảm bảo cuộc sống cho cá nhân, gia đình.

Do vậy, dù là doanh nghiệp ở đâu, văn hoá doanh nghiệp cũng luôn tồn tại và nó tồn tại chính trong mỗi thành viên của doanh nghiệp. Tuy nhiên văn hoá doanh nghiệp luôn có tính đặc thù riêng, đó là bản sắc dân tộc.

Văn hoá doanh nghiệp trong doanh nghiệp của Việt Nam thời hội nhập

Khi bàn về vận dụng văn hoá doanh nghiệp như thế nào tức là chúng ta phải giải bài toán mối quan hệ của cá nhân với cá nhân, cá nhân với lãnh đạo, cá nhân với doanh nghiệp, doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài… trên nền tảng lợi ích và mục tiêu, quyền lợi và trách nhiệm…

Mối quan hệ cá nhân với cá nhân trong doanh nghiệp đều được coi là nền tảng để hình thành doanh nghiệp mạnh hay yếu, bởi họ luôn bên nhau vì lợi ích và cùng mục tiêu. Vì vậy khi giải quyết bài toán này phải xét lợi ích của các cá nhân trong doanh nghiệp, theo đó phải tính đến mục tiêu của họ tới đâu để nâng đỡ. Mối quan hệ này vừa là động lực để doanh nghiệp phát vừa là sự gắn kết các thành viên với nhau.

Mối quan hệ cá nhân với lãnh đạo. Đây là mối quan hệ không phải lúc nào được công khai, bởi cá nhân với lãnh đạo chỉ xảy ra khi có vấn đề từ phía cá nhân hay từ phía lãnh đạo. Xét trong một khía cạnh khác thì đây vẫn là mối quan hệ cá nhân với cá nhân đặc biệt trong doanh nghiệp, vì vậy lãnh đạo phải chủ động tìm hiểu và chia sẻ với từng cá nhân trong doanh nghiệp, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, những chuyện vui, buồn, những khó khăn để giúp đỡ họ. Ngược lại mỗi cá nhân cũng phải coi sự đóng góp xây dựng cho doanh nghiệp thông qua lãnh đạo là trách nhiệm và là quyền lợi của mình.

Mối quan hệ cá nhân với doanh nghiệp, đây là mối quan hệ cái riêng với cái chung, khi đặt vấn đề này thì phải xét trên góc độ tổng thể của cái chung để điều chỉnh. Bởi cái chúng là doanh nghiệp có mục tiêu kinh doanh, chiến lược kinh doanh và phương pháp kinh doanh mang tính ngành nghề, cá nhân phải có trách nhiệm tích cực đóng góp công sức và tài năng để doanh nghiệp thành đạt, ngược lại doanh nghiệp cũng phải có chính sách đãi ngộ thoả đáng để khích lệ người lao động.

Mối quan hệ doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp trong nước. Đây là mối quan hệ được coi là đại diện cho cái chung với cái chung khác có mục đích kinh doanh vì vậy luôn mang tính cạnh tranh. Nếu là cạnh tranh lành mạnh thì cả hai bên đều tốt lên, nếu một trong hai bên có hành vi cạnh tranh không lành mạnh thì sớm muộn sẽ bị phát hiện và lên án.

Mối quan hệ các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp nước ngoài trong giai đoạn hội nhập là vô cùng quan trọng, bởi qua đó chúng ta có thể học hỏi, trao đổi và cùng thúc đẩy các hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển.

Để có văn hoá doanh nghiệp thời hội nhập theo đúng nghĩa thì trách nhiệm của từng cá nhân và lãnh đạo trong doanh nghiệp phải chủ động tìm hiểu các quy định của luật pháp quốc tế trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh; Tìm hiểu kinh nghiệm ứng xử khi có các sự kiện tranh chấp thương mại; Nghiên cứu, cập nhật thông tin kinh doanh, bám sát thị trường để ra các quyết định hợp lý, nhằm đem lại lợi nhuận ngày một cao.

Giải pháp nâng cao văn hoá doanh nghiệp hiện nay

Một là, đẩy mạnh công cuộc cải cách hành chính để tạo ra sự dân chủ, công khai và cạnh tranh lành mạnh trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Hai là, xác lập các tiêu chí để xây dựng khung kiến thức cơ bản cho mọi người, theo đó thường xuyên xem xét lại những điểm mạnh, điểm yếu khi đánh giá về văn hoá doanh nghiệp để tuyên truyền, nhắc nhở mọi người về trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi cá nhân trong cộng đồng và trong mỗi doanh nghiệp.

Ba là, tập trung nâng cao vị trí vai trò của các Hiệp hội doanh nghiệp để qua đó giúp đỡ các doanh nghiệp mới, doanh nghiệp còn yếu, còn trong việc đào tạo nguồn nhân lực, cung cấp thông tin về những vấn đề liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp để không ngừng tạo cơ hội cho doanh nghiệp phát triển.

Bốn là, xây dựng chiến lược đầu tư cho con người để phát huy tài năng và sức sáng tạo lao động của mỗi cá nhân trong doanh nghiệp qua đó nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.

Năm là, tích cực tuyên truyền, phổ biến các kiến thức pháp luật và kiến thức chuyên ngành cho tất cả mọi thành viên trong doanh nghiệp.

Sáu là, tổ chức các cuộc thi, giao lưu văn hoá và tìm hiểu biết pháp luật giữa các thành viên của các doanh nghiệp./.

SOURCE: TẠP CHÍ KINH TẾ VÀ DỰ BÁO SỐ 11 (427) THÁNG 6 NĂM 2008