Thứ Bảy, 25 tháng 1, 2014

"Take the 'A' Train" Đến Bình Thạnh


Nguyễn-Xuân Nghĩa - Việt Báo Xuân Giáp Ngọ 2014

Nghe lại một khúc Jazz bất hủ tại Bình Thạnh

Hình bìa nhạc khúc của Billy Strayhorn. Lấy chuyến xe A vào Harlem



Ngày xưa, dễ chừng đã hơn hai chục năm, hãng yêu cầu tôi về Việt Nam cho một dự án họ đánh giá là quan trọng. Vì quan trọng nên chính ông Tổng giám đốc dẫn đầu phái đoàn cùng hai ngưởi Mỹ làm tư vấn của một doanh nghiệp về thiết kế có nhiều công trình nổi tiếng mà người Việt nào cũng biết nếu đi vào khu giải trí Disneyland hay thăm Universal Studios. 

Ông Tổng giám đốc Paul Gibson là tay kỳ cựu về Á Châu, biết Sàigòn từ bốn chục năm trước và thuộc chuyện Đông Á như lòng bàn tay. Hai người kia thì trẻ hơn và chưa từng đến Việt Nam. Dự án họ trù tính thực hiện là một khu giải trí tương tự như Disneyland, sẽ lớn nhất Đông Nam Á.

Là Phụ tá về phát triển dự án, tôi gợi ý về cách trình bày truyện tích của Việt Nam để thu hút loại khách du lịch văn hóa thay vì du lịch tình dục, nhân đó quảng bá lịch sử nước nhà cho quốc tế. 

Tôi nói về truyện Sơn Tinh Thủy Tinh, Phù Đổng Thiên Vương hay Thạch Sanh Chém Chằn Tinh. Tôi kể tại các trận Bạch Đằng Giang hay Thất Kỳ Giang khi khách giật mình thấy cọc nhọn xuyên thủng đáy thuyền họ ngồi, hoặc khi lửa cháy vào khoang trong tiếng nổ lập lòe chung quanh. Đã xem cảnh "Back to the Future", "Jurassic Park" hoặc "Pirates of the Carribean" trong các khu giải trí của Mỹ, chúng ta đều có thể mơ ước chuyện ấy....

Du khách sẽ hồi hộp theo dõi tích cổ trong tiếng nhạc của dân Việt. Ra về còn đem theo nhiều vật kỷ niệm sẽ nuôi sống thủ công nghệ Việt Nam. Cái trống đồng nho nhỏ có thể là bát nhang, vật chặn giấy, hay cái gạt tàn thuốc lá.

Trong những ngày họp hành và thăm thú nhiều nơi, kể cả trung tâm Bàu Sen với tượng Nguyễn Trãi bằng đá buồn bã nhìn khách thuê áo cưới nhễ nhại chụp ảnh, mấy người Mỹ hỏi tôi xem có nơi nào giải trí không. Họ có vẻ chán cảnh phụ diễn văn nghệ trong khách sạn mà muốn tìm đến chỗ nào quốc tế hơn. Tôi hỏi quanh thì được biết đến một nơi khá xa, có thể nghe nhạc Mỹ.

Từ khách sạn, chúng tôi lấy xe thuê qua Bình Thạnh và tìm đến một ngõ tối hun hút.

Bước vào ngõ, tôi nhớ đến Phố Buồn của Phạm Duy hay Xóm Đêm của Phạm Đình Chương thì vẳng thấy tiếng nhạc ngoại quốc. "Phòng trà" là vài tấm bạt che ba bốn cái bàn gỗ ở góc ngõ. Khách có thể ngồi uống trà hay cà phê, nghe nhạc từ một dàn "tứ tấu", có dương cầm, vĩ cầm và hai cây guitar, có tiếng basse rất ngọt. Nhạc trình bày là mấy bản "pop" thịnh hành vài chục năm trước.

Nghe nhạc ngoại quốc tôi nhớ lại thời trước 75.

Đi dự hội nghị quốc tế và vào phòng trà Đông Á thì mình không chỉ nghe "Nắng Chiều" của Lê Trọng Nguyễn mà rất nhiều ca khúc khác của Sàigòn. Thời ấy, giới thanh lịch Đông Nam Á nghe nhạc Nguyễn Ánh 9 hay Văn Phụng là thường. Nghệ thuật Sàigòn toả sáng vào các hộp đêm Á Châu mà chẳng vì lính Mỹ.

Bây giờ, ngồi ở Bình Thạnh, thấy có khách Mỹ, ban nhạc gồm mấy người còn trẻ bỗng hứng khởi nên chơi nhạc Rock, và còn hỏi khách có yêu cầu bản nào không.

Tôi viết lên giấy "Take the 'A' Train". Đấy là tác phẩm của Bill Strayhorn được ban nhạc Duke Ellington đưa lên hạng nổi tiếng nhất của nhạc Jazz. 

Mấy nhạc sĩ trẻ nhìn nhau ra dấu. 

Ngõ tối Bình Thạnh bỗng sáng trưng. Tôi chưa từng nghe một bản A Train nào hay như vậy! Hình như mấy người khách Mỹ cũng thấy thế. Họ ngồi chăm chú, đôi chân nhịp nhịp theo nhạc và cuối bài thì vỗ tay tán thưởng.

Nhạc trưởng Duke Ellington và "Take the A Train"


Họ thì thầm với nhau trong khi ban nhạc cúi chào và bắt qua một bài khác, hay không kém.

Đấy là lúc một người Mỹ hỏi thầm ông Tổng giám đốc. "Tại sao mấy người này giỏi và dễ thương như vậy mà mình lại đánh họ?" Một người khác nói tiếp, kiểu rất Mỹ. "Cộng sản mà chơi Jazz như thế này hay quá! Nhạc của chúng ta đã cảm hóa họ rồi..."

Ông Tổng giảm đốc thuộc loại lõi đời nháy mắt nhìn tôi.

Ngồi im cho đến khi ban nhạc nghỉ giải lao thì tôi lân la hỏi chuyện mấy nhạc sĩ. "Em học piano với bà Cung hay thầy Xuân mà đánh hay như vậy? Ban nhạc của mấy em hoạt động từ thời nào?..."

Hai người tôi nhắc đến tên là danh thủ dương cầm về loại nhạc tân kỳ từ trước 1975. Còn mấy nhạc sĩ này thuộc lớp trẻ nhất của dòng nhạc đó, hơn hai chục năm trước. Họ đã tốt nghiệp trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ tại Sàigòn trước khi cả nước dứt đường tơ. Nay thì vừa gom góp vốn liếng chơi lại nhạc cũ. Vốn liếng không nhiều, họ chỉ có một ngõ tối ở ngoại ô tù mù...

Được khách ngợi khen, mà lại là người Mỹ thứ thiệt, họ cao hứng trình tấu rất hay và kể lại chuyện cũ, thời "cải tạo", rồi thời "đổi mới".

Trên xe trở về khách sạn, tôi trả lời mấy người bạn Mỹ:

Xong chiến tranh rồi, quý vị vẫn chẳng hiểu gì cả! Các nhạc sĩ này là sản phẩm của miền Nam. Họ không chơi nhạc trong club Mỹ ngày xưa. Họ bị nạn hai lần khi miền Nam sụp đổ và lãnh tội bồi Mỹ với loại nhạc đồi trụy. Bây giờ quý vị khen là Cộng sản cũng văn minh mà chơi nhạc Jazz như Mỹ!...

Cũng từ đó, mỗi lần nghe "Take the 'A' Train", tôi ngậm ngùi nhớ về Bình Thạnh! Mà không chỉ Bình Thạnh hay nhạc Jazz. Miền Nam chúng ta đi quá sớm.

Còn dự án kia? Ý tưởng cũng quá sớm với chế độ hiện tại. Người Mỹ ra về và nói rằng nên đợi trăm năm, hoặc tìm qua xứ khác....

Thương biết bao, 50 năm Việt Rock.

__________________________

Bài viết trên Việt Báo Xuân Giáp Ngọ (trang 92) để dẫn vào bài ký sự về một ban nhạc Rock đầu tiên của Việt Nam, ban CBC Band, 50 năm vẫn còn hát, sau khi đi tìm tự do từ 1974, và trôi dạt vào một ngôi chùa Tây Tạng....

Thánh Mẫu Liễu Hạnh Bất Tử Trong Sử Việt


Dưỡng Chân - Việt Báo Xuân Giáp Ngọ 2014

Công Chúa, Bồ Tát hay Con Hát Bất Hạnh?






















Cuốn biên khảo của Olga Dror về Liễu Hạnh


Dân ta thường có một câu nhắc nhở hai ngày giỗ quan trọng nhất năm: "Tháng Tám giỗ Cha, Tháng Ba giỗ Mẹ". 

Tháng Tám âm lịch vào ngày 16 là giỗ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, nhân vật có thật của dân tộc vào đời Trần (1225-14000. Sinh năm 1228 và mất năm 1300, ngài chỉ huy ba trận chiến đánh bại quân Mông Cổ của nhà Nguyên bên Tầu vào các năm 1258, 1285 và 1287, được dân ta dựng tượng thờ và cúng bái hàng năm.

Còn mùng Ba Tháng Ba âm lịch là ngày giỗ Công chúa Liễu Hạnh, được nhiều người tôn vinh là Thánh Mẫu, và trải qua mấy trăm năm, được các triều Lê và Nguyễn sắc phong là Mẫu Nghi Thiên Hạ - mẹ của muôn dân.

Nếu Hương Đạo Vương là nhân vật có thật duy nhất được dân ta tôn là Thánh thì Công chúa Liễu Hạnh còn siêu phàm hơn vậy.

Liễu Hạnh là phụ nữ duy nhất trong bốn thần linh được dân ta đưa lên hàng "Tứ Bất Tử", giữa ba nhân vật thần thoại kia là Tản Viên Sơn Thần, Thánh Gióng và Chử Đồng Tử. Trong số ba vị nữ lưu được nhiều người cúng bái như Mẹ, thì Thánh Mẫu Liễu Hạnh đứng đầu, trước Mẫu Thoải và Mẫu Thượng Ngàn. Trong thế giới của người hầu đồng, với Tam Phủ hay Tứ Phủ ở từng nơi, Liễu Hạnh cũng ở trên cùng, cai quản Thiên Phủ, trước Địa Phủ, Thoại Phủ và Nhạc Phủ....

Vậy mà chúng ta biết rất ít về Liễu Hạnh. Bà là người có thật hay chăng? Là Công chúa, Thánh Mẫu, Bồ Tát hay con hát, chúng ta cũng chẳng hay....

May là qua thế kỷ 20 này, một nữ học giả gốc Nga, giáo sư tại Hoa Kỳ, lại say mê văn hóa Việt Nam và tận tụy tìm hiểu về Liễu Hạnh. Bà Olga Dror đã đi nhiều nơi, tham khảo mọi tài liệu sách báo và vẽ lại chân dung Liễu Hạnh qua hai cuốn biên khảo mà người Việt chúng ta nên biết....

Bài này khởi đi từ đó để tìm về Liễu Hạnh.


***

Olga Dror


Bà Olga Dror sinh tại nước Nga vào thời Liên bang Xô viết. Sau năm năm theo học về Việt Nam - nên gọi là Việt học chăng? - tại Leningrad State University, năm 1988 bà có đến Việt Nam làm thông dịch viên cho một phái đoàn Xô viết khi Liên Xô sắp tan rã. Sau khi Liên Xô sụp đổ, bà Olga Dror qua Mỹ, học hỏi tiếp về Việt Nam theo lối chính quy nền nếp của các Đại học Hoa Kỳ. Tốt nghiệp Tiến sĩ, bà giảng dạy về lịch sử và văn hóa Á Châu tại nhiều đại học Mỹ, nhưng vẫn chuyên chú về Việt Nam, bên ngoài và hiển nhiên trái ngược với phạm vi hay quy cách thời Xô viết. Có thể là do thiện cảm của một người đã tìm hiểu về dân tộc này với lăng kính mở rộng.

Nhờ vậy, bà đã cống hiến hai tác phẩm mà các nhà nghiên cứu về Việt học nên chú ý.

Cuốn thứ nhất, "Opusculum de Sectis apud Sinenses et Tunkeneses", là bút ký của một linh mục người Ý, cha Adirano di Santa Thecla thuộc dòng tu Augustinian Chân đất. Tài liệu có thể đã bị lãng quên sau khi xuất hiện vào năm 1750 nếu không lọt vào trí tò mò của Olga Dror từ năm 2000, khi bà đang nghiên cứu về Liễu Hạnh. 

Vì Liễu Hạnh, bà Olga Dror đọc kỹ tiểu luận bằng tiếng Latinh của nhà truyền giáo thời xưa, rồi phiên dịch và bổ chú. Nhờ đó, ta có cuốn "A Small Treatise on the Sects among the Chinese and Tonkinese". Đây là một tiểu luận mấy trăm trang về các giáo phái của người Tầu và người Việt trên đất Bắc Hà vào Thế kỷ 18 – được Đại học Cornell xuất bản năm 2002.

Ngoài một đoạn ly kỳ về Liễu Hạnh, cuốn sách còn cung cấp nhiều thông tin bất ngờ về tín ngưỡng của những người sinh sống tại Bắc Hà vào cuối thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Đấy là lời tường thuật khách quan - và ân cần - của một nhà truyền giáo muốn tìm hiểu thế giới tâm linh của người Việt để thi hành mục vụ, và cố gắng để không trái với huấn chỉ đáng dị nghị của Toà Thánh Vatican. Nhờ sự dẫn giải của Olga Dror, người đọc không chỉ biết thêm về sinh hoạt thờ cúng của dân ta tại miền Bắc mà còn hiểu ra bài toán của Giáo hội Công giáo.

Hoàn tất công trình biên khảo và phiên dịch này rồi, Olga Dror mới trở lại với Liễu Hạnh.

Bổ xung cho loạt tiểu luận từ năm 2002 về Liễu Hạnh qua cái nhìn của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm, vị học giả này tìm hiểu tiếp về một nhân vật hư hư thực thực nhưng có ảnh hưởng toả rộng trong tâm tư của người Việt. Kết quả là cuốn sách thứ nhì.

Được Đại học Hawaii xuất bản năm 2007, cuốn "Cult, Culture, and Authority – Princess Liễu Hạnh in Vietnamese History" của Olga Dror đã theo chân Liễu Hạnh qua các thời kỳ và địa phương để nói về quan niệm thờ cúng, văn hóa và quyền lực của người Việt, từ ngàn xưa cho đến ngày nay.... Những ai muốn nghiên cứu về Việt học đều nên đọc cuốn này. Nếu muốn quảng bá Việt học thì nên xin tác giả cho phép phiên dịch, với rất nhiều bổ chú, để mình nhận ra mình.

Thuần về văn học sử, cuốn sách có giá trị ở việc thu thập và trình bày lại Liễu Hạnh qua cách tường thuật có gói ghém cả tâm tư của Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm vào Thế kỷ 18 (Vân Cát Thần Nữ truyện, trong cuốn Truyền kỳ Tân phả bằng chữ Hán), của Hy Văn Nguyễn Công Trứ vào Thế kỷ 19 (Liễu Hạnh Công Chúa Diễm Âm bằng chữ Nôm) và Kiều Oánh Mậu vào đầu Thế kỷ 20 (Tiên Phả Dịch Lục bằng chữ Nôm).

Những truyện kể từ Hán đến Nôm đã là chuyện ly kỳ. Nhưng truyện kể từ cuối thời Trịnh Nguyễn của Đoàn Thị Điểm qua thời Nguyễn Sơ của Nguyễn Công Trứ, khi quân Pháp sắp vào làm chủ đất nước, qua thời thực dân của Kiều Oánh Mậu, hình tượng Liễu Hạnh phản ảnh tâm tư và hoài bão của thành phần ưu tú nước ta.

Bước sang lãnh vực tín ngưỡng, truyện Liễu Hạnh của Olga Dror còn cho thấy nhiều tranh giành ảnh hưởng giữa Đạo giáo với Phật giáo, kể cả các màn đấu phép giữa Công chúa Liễu Hạnh và Nội Đạo Tràng, một tông phái rất lạ xưng danh Phật giáo, hay ở trong các sinh hoạt Đạo giáo được cuốn Hội Chân biên ghi lại.... Được các triều đình theo Khổng Nho ban sắc phong là Mẫu Nghi, Công chúa Liễu Hạnh cũng là Tiên là Phật của những người theo Lão theo Phật. Và là Thánh Mẫu tối cao của những người lên đồng.

Hấp dẫn hơn thế, Liễu Hạnh cũng hiện diện trong các tranh chấp lịch sử dưới triều Lê, triều Mạc, rồi suốt thời Nội chiến phân tranh giữa hai họ Trịnh-Nguyễn. Dường như phe nào cũng có một Liễu Hạnh của mình, hoặc dùng biểu tượng Liễu Hạnh để gây bè kết phái trong sự tôn sùng của dân gian. Thời Pháp thuộc, tín ngưỡng của dân gian cũng được tận tình khai thác và chế độ thực dân cùng các phong trào kháng Pháp đều nói đến phát huy và bảo tồn bản sắc văn hóa nên cũng huy động và đề cao Liễu Hạnh.

Kinh nghiệm của Olga Dror dưới chế độ cộng sản tại Liên Xô còn giúp bà giải thích những quốc sách về tín ngưỡng và tôn giáo dưới các chế độ độc tôn, từ thời quân chủ chuyên chế qua thời thực dân, xã hội chủ nghĩa cho đến ngày nay. Qua chân dung Liễu Hạnh, may ra, chúng ta thấy được thân phận người dân trong thời tao loạn.....

Với sự hiểu biết trung bình – nghĩa là khá thấp mà không biết – về nền văn hóa cổ của nước nhà, người viết xin tìm lại Liễu Hạnh từ những biên khảo của Olga Dror rồi từ nhiều tác giả khác....



Tam tòa Thánh Mẫu - Thượng Thiên ngồi giữa Thượng Ngàn và Mẫu Thoải



Liễu Hạnh Đa Diện


Bên ngoài thế giới khoa học, và nói về thế giới thần bí của tín ngưỡng, người ta có nhiều chân dung khác nhau của Liễu Hạnh. Nhưng chúng ta cũng có thể kết hợp làm một, như về một nhân vật duy nhất, qua cách giải thích là nhờ hóa thân, nhờ chuyện đầu thai. Vì vậy, thời nào và nơi nào cũng có thể có "Liễu Hạnh của mình", được trình bày trong các truyền thuyết....

Trước khi đi vào truyền thuyết, chuyện đầu tiên là sự tai hại của tấm "lịch tròn" theo lối viết sử biên niên tại Việt Nam hay Trung Quốc. Với người xưa, thời gian vận chuyển theo hình tròn. Mọi chuyện tái diễn trong một vòng hoa giáp 60 năm và vào một niên hiệu nào đó của ông vua đang cai trị, mà niên hiệu thì có đổi thay nếu có chuyện đổi ngôi hay ông vua thấy hứng. Thí dụ như một biến cố chỉ được ghi lại là vào một năm Quý Sửu, chi tiết hơn thì có niên hiệu của ông vua đời Lê, thời Hồng Đức, hay Thiên Hựu hay Cảnh Trị thì còn tùy! Còn không gian là tên của nhiều địa danh, từ ấp, xã, huyện phủ lên đến tỉnh, thì cũng đổi thay theo từng triều đại.

Nhờ sự mông lung mơ hồ đó, Liễu Hạnh có thể xuất hiện ở nhiều nơi và thi thố thần thông vào nhiều thời.

Theo một truyền thuyết còn giữ tại Nam Định như văn bản chính thức, lần đầu tiên Liễu Hạnh xuất hiện là vào đời Hậu Lê, tại trấn Sơn Nam, nay là tỉnh Nam Định. Thời điểm là mùng sáu Tháng Ba âm lịch của năm Quý Sửu. Dùng tấm lịch thẳng, ta đoán ra năm 1433, lùi lại vào năm Quý Sửu 1493 thì sai bét. Khởi đầu, có cô con gái của Ngọc Hoàng Thượng Đế là Công chúa Hồng Liên đã giáng trần thành nàng Phạm Tiên Nga trong một gia đình họ Phạm.

Sống đời gương mẫu, nàng lo tròn chữ hiếu với hai thân phụ mẫu. Sau khi cha mẹ tạ thế thì nàng bắt đầu tế độ chúng sinh ở tuổi 35 bằng hoạt động từ thiện như đắp đê, xây cầu, lập chùa và bằng những lời khuyên răn về chuyện nhân đức. Phạm Tiên Nga hóa thân về trời ở tuổi 40, vào đêm mùng hai rạng mùng ba Tháng Ba năm Quý Tỵ, ứng vào năm 1473, đời Hồng Đức, là đời Lê Thánh Tông. Dân chúng địa phương lập đền thờ ở nhiều nơi và lễ hội tưởng nhớ Liễu Hạnh có thể khởi sự từ đó, ít ra theo cách diễn giải của giới chức địa phương.

Một thuyết khác, phổ biến hơn mà cũng có thể xuất phát từ cách trình bày của Đoàn Thị Điểm, Công chúa Liễu Hạnh là hóa thân của nàng Phạm Tiên Nga. Vì ở trên thiên đình nàng vẫn thương nhớ mẹ cha dưới trần, nên lại tái sinh vào năm Đinh Tỵ đời Thiên Hựu, tại thôn Vân Cát, xã An Thái, huyện Thiên Bản, cách chốn cũ có bảy cây số ngàn. Theo tờ lịch thẳng thì đấy là năm 1557. Lần này thì nàng giáng thế trong một gia đình họ Trần hay họ Lê, và kết duyên với một người tử tế có học, sinh được một con trai, rồi thăng vào tuổi đôi mươi, năm 1577, đời Lê Gia Thái. Lăng mộ và đền thờ được lập tại đó và lễ hội Phủ Dầy là một sinh hoạt trọng đại cho đến sau này.

Thời điểm 1557 rất đáng chú ý vì chỉ là một năm trước khi Nguyễn Hoàng xin vào Thuận Hoá. Thời Trịnh-Nguyễn phân tranh bắt đầu từ đấy, với Đàng Trong mở ra hướng khác, về Đông Nam Á.

Truyền thuyết thứ ba, theo dòng thời gian trước sau, Công chúa Liễu Hạnh lại tái sinh lần nữa vào ngày 10 Tháng 10 năm Canh Dần, ứng vào năm 1650. Lần này cũng vì thương nhớ chồng con thuộc kiếp trước, bà giáng sinh tại một nơi xa hơn ở phía Nam, làng Tây Mỗ, xã Hà Thái, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá và tái hợp với người chồng tử tế và có học của kiếp trước nay đầu thai trong một gia đình họ Mai. Sinh được một con thì bà lại thăng, ở tuổi 18, vào ngày ông Táo về trời năm Mậu Thân 1668. Dân chúng lập đền thờ tại phủ Sòng Sơn, tỉnh Thanh Hoá.

Xuyên qua ba truyền thuyết cũ, trước khi lại có truyện mới, thì Liễu Hạnh không phải người trần, mà là con gái Ngọc Hoàng Thượng Đế. Vì lỡ tay làm rơi chén ngọc mà bị giáng xuống thế gian nên mới có tên như Tiên Nga, Giáng Tiên, v.v... Dưới trần thế, nàng tiên xinh đẹp là người giỏi văn thơ và âm nhạc, sống một đời gương mẫu với gia đình và ban phát phúc lành cho dân gian. Nàng cũng là người đi nhiều nên thấy xuất hiện ở khắp mọi nơi, vào nhiều thời, có khi còn thơ phú với Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan và bằng hữu, như bà Đoàn Thị Điểm kể lại.

Con người tài đức ấy được dân gian tin tưởng nên nhiều nơi xây miếu đền để thờ phượng một đấng linh thiêng. Thờ phụng vì đấy là người thiêng, mà cúng bái xin xỏ gì thì cũng toại nguyện nên mới là người linh. Triều đình nghe danh nên sắc phong làm Thượng đẳng Phúc thần rồi Mẫu Nghi Thiên Hạ và Công chúa Liễu Hạnh mới lên tới ngôi vị thần linh.

Trước một hình tượng linh thiêng và đa diện như vậy trong dân gian, danh nho hay nữ sĩ cũng phải cúi đầu, nhưng mỗi người một cách vì một mục tiêu.

Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm viết về Liễu Hạnh bằng chữ Hán cho thiểu số ưu tú được đọc, không để đòi nam nữ bình quyền như người sau diễn giải. Bà muốn cho thấy phụ nữ còn trên đàn ông rất xa mà không chỉ về thơ phú ngâm vịnh. Hồng Hà nữ sĩ mở đường cho Hồ Xuân Hương....

Còn danh nho Nguyễn Công Trứ viết về Liễu Hạnh khi nước nhà sắp lâm nguy. Ông viết bằng chữ Nôm cho quần chúng nghe và lưu truyền, rằng sông núi nước Nam có thần linh ngự trị. Đến Kiều Oánh Mậu vào thế kỷ 20, khi nước Nam đã mất chủ quyền, ông cũng viết bằng chữ Nôm cho dân gian dễ lưu truyền. Ông viết về một bản sắc riêng của dân tộc, khi việc khai hoá của thực dân là trò chơi hai mặt.

Với Liễu Hạnh, thế giới song ngữ Hán Nôm, của thiểu số ưu tú và đa số dân giả, đã hợp chung làm một. Người thì cúng bái cầu khẩn, người thì ca tụng bằng thơ văn và triều đình ở trên bèn vơ vào một mối, với sắc phong và cờ biểu tưng bừng.

Nhưng nào chỉ có vậy!




Liễu Hạnh Hồng Nhan



Xuyên qua công trình sưu tập và diễn giải của Olga Dror, với những trích dẫn tường tận về các tác giả khác, chúng ta thấp thoáng thấy một chân dung độc đáo, mà rất "người", của Liễu Hạnh.

Vì sử gia Tạ Chí Đại Trường nói đến Liễu Hạnh như một vị thần dữ, lại có hơi hướng của sông nước, nên ta chú ý đến vài khía cạnh ít ngờ. Vị Thánh Mẫu này đôi khi ra tay trừng phạt nên mới có tiếng là thần dữ. Và bà cũng nổi trôi theo mệnh nước mà tiến dần vào Nam, có khi được Việt hoá từ một hình tượng thần linh Chiêm Thành. Chúng ta tiếp nhận văn hóa và cả nghệ thuật lẫn tín ngưỡng Chàm từ đời Lý mà đã quên rồi. Cho nên bà  Po Nagar của dân Chàm có khi nhập Việt tịch mà thành Thiên Y A Na rồi hóa thân ra Hậu Thổ Phu Nhân và trở thành Thánh Mẫu Liễu Hạnh.

Chi tiết khác được nhà truyền giáo di Santa Thecla ghi lại trong tập Opusculum do Olga Dror phiên dịch, là Liễu Hạnh được dân gian sùng bái rất rộng, nhưng chỉ là người thường.

Mà khá bất thường. 

Vì "Nàng hát, theo lời kể lại là một cách thô tục và vô xỉ (disgracefully and impudently) nên bị người ta ghen tức giết chết và vứt xác xuống sông!" Chữ Latinh của di Santa Thecla là impudica được Olga Dror dịch ra impudently và diễn giải là shamelessly, nên có thể hiểu là "không biết xấu hổ".

Nhưng biết đâu chừng, đấy là cái tội dâm đãng? Một kỹ nữ dâm đãng bị ai đó giết bên bờ nước mà được lập đền thờ và đời sau tôn là Công chúa, là Giáng tiên và lên ngôi Thánh Mẫu? Thuyết này không có gì là hoang đường, vì sau nhà truyền giáo di Santa Theckla 30 năm, một nhà ngoại giao Pháp là François-Louis Lebreton cũng xác nhận năm 1782, rằng theo lời kể của nhiều người Việt, "Liễu Hạnh là một ả giang hồ, bán dâm - prostituée - được thờ cúng ở nhiều nơi....."

Liễu Hạnh không chỉ đa diện mà còn có thể là hồng nhan đa truân!

Đầu Xuân xin hãy hỷ xả mà theo dõi chuyện này, vì trước tiên chúng ta trở lại với một phong tục xưa. 
Từ tâm là một nét đặc thù rất Việt. Dân ta có thể vì lòng thương cảm với người chẳng may chết oan mà lập đền thờ. Nổi tiếng nhất và dẫn đầu chính là Hai Bà Trưng, được dân thương là chết trận mà lập đền, trước khi được đời sau tôn là anh hùng dân tộc.

Và đi vào thế giới tâm linh thì ta mới có chuyện thiêng, rồi linh. Thiêng là khi thấy người chết hiển thị được phép siêu hình, có lành có dữ. Linh là khi pháp thuật đó lại đáp ứng lời cầu xin của người lễ bái. Xin gì được nấy thì đấy là linh.

Chỉ vì lòng nhân, không thiếu gì ngôi làng đã chôn kẻ hành khất thuộc diện "sinh vô gia cư, tử vô địa táng". Khi thấy mả có mối đùn hay điềm lạ thì dân làng lập miếu thờ hồn thiêng, nếu lại có sự linh ứng được đồn đãi thì kẻ ăn mày đó có thể là thành hoàng của ngôi làng. Sau này còn được sắc vua ban.

Chẳng nói đến chuyện khất cái thì hãy nhớ tới Sầm Nghi Đống! Mấy ai phục kẻ xâm lăng nhưng vẫn thương người chết trận ở phương xa mà lập miếu thờ. Ngõ Sầm công và bài thơ Hồ Xuân Hương vẫn còn đó....

Trở lại với Liễu Hạnh, xin lần giở trang sử.

Hiện tượng sùng bái Liễu Hạnh xuất hiện sau đời Lê Thánh Tông và bộ Luật Hồng Đức. Bộ luật này có ưu điểm là tiến bộ hơn bộ Luật Gia Long đời sau, nhưng vẫn có những quy định nghiệt ngã dành cho bọn "xướng ưu", nôm na là con hát và nghệ sĩ trình diễn: "Ca nhi, đám diễn trò, kẻ bạn nghịch và lũ tòng vong của kẻ thù, cùng con cháu về sau, thảy đều không được đi thi". Sĩ làm quan cũng không được lấy kẻ xướng ca vô loài.... Vi phạm thì lãnh 70 trượng và sụt ba cấp.

Sự hẹp hòi khiến Đào Duy Từ phải trốn vào Đàng Trong đã xuất phát rất lâu từ trước, từ thời Lê Thánh Tông. Các Nho thần cúc cung tận tụy với đạo Thánh hiền còn quên một ả đào có công trong những năm kháng chiến chống quân Minh: nàng chuốc rượu quân thù, cho vào bao bố trôi sông.

Người phụ nữ không tên mà có tích này chẳng được nhớ ơn thì dân chúng nghiêng về Liễu Hạnh.

Công chúa Liễu Hạnh có thể là ca nhi, con hát, một ả đào trong kỹ viện được người xưa gọi khá tục là "Cung Dâm". Rồi vì ghen tuông hay bất kỳ lý do nào đó mà thiệt mạng và chẳng có ai lo việc hương khói. Nhưng lại được cư dân xót thương mà chôn cất, rồi phất dần nhờ lời đồn về chuyện linh thiêng.

Kết cục thì dân ta có một nhân vật với xuất xứ mơ hồ nhưng lại có ảnh hưởng đến nhiều người khác. Ảnh hưởng đó cho thấy cả bối cảnh sâu xa ở dưới về chuyện quyền lực....


Quyền Lực Liễu Hạnh













 
Trong một giai đoạn quá lâu, chúng ta lầm tưởng về một thế giới cởi mở và hòa đồng giữa ba tôn giáo truyền thống là Nho, Lão, Phật.

Chuyện "Tam giáo đồng nguyên" được nhiều người ca tụng chỉ là trò phỉnh gạt của hình thái "chính phủ ba thành phần" sau này. Thực tế thì trong chế độ khoa cử từ sau đời Lý, giáo trình bắt buộc cho sĩ tử chỉ là lý luận Khổng Nho. Hệ thống Khổng Nho và các Nho thần chép sử lẫn thầy đồ dạy học đều lặng lẽ đẩy lui tư tưởng Lão giáo và ảnh hưởng Phật giáo ra khỏi triều đình.

Về sau, những miếu đền hay chùa chiền gì đều nằm ở ngoài rìa, vì trung tâm sinh hoạt của cộng đồng làng xã sẽ là cái đình. Không những vậy, việc bài xích Phật giáo còn được coi là phải đạo, từ đời Lê qua đời Nguyễn. Các ông vua xây nhiều chùa chiền thì bị sử gia đời sau phê phán là mê tín, hoang phí.

Dân ta có một khoảng trống mở ra ở Đàng Trong, nhờ chín đời Chúa Nguyễn, từ 1558 đến 1786. Cơ hội giải trừ ách Khổng Nho và chế độ tự Hán hóa như vậy lại chấm dứt khi Nguyễn Ánh lên ngôi. Gia Long tự coi như một tiếp nối của nhà Lê và Nho thần viết sử đã cho chín đời Chúa vào ngoặc đơn.

Ở bên dưới sự thống trị mặc nhiên của Nho giáo, thì Lão giáo với Phật giáo có đấu tranh mà cũng có hòa hợp và cứ biến thái dần. Liễu Hạnh là người xuất hiện và hiển linh trong thế giới nửa Lão nửa Phật đó, nên mới có hình tượng Bồ Tát lẫn gốc gác con gái Ngọc Hoàng, là một hiện tượng nằm ngoài Phật giáo và xuất hiện khá trễ tại Việt Nam.

Thế rồi, khi thấy Liễu Hạnh được nơi nơi thờ cúng, Triều đình bèn nhảy vào ăn có, như trong nhiều trường hợp khác, qua tờ sắc phong là Mẫu Nghi Thiên Hạ. Việc tiếp thu tín ngưỡng đối nghịch, trước đó bị gọi là "mê tín dị đoan", rồi nâng lên hàng thánh của mình, vẫn chỉ là chuyện quyền lực muôn thuở.

Nhưng dân gian bất cần!

Họ vẫn cúng bái tế lễ theo phong cách riêng được lưu truyền từ đời này qua đời khác. Khát vọng tâm linh của con người là chuyện muôn đời, từ khi thờ hòn đá, cây đa cho đến các đấng nhân thần cao quý hơn. Chế độ chính trị ở trên có thể cấm đoán, bài xích chứ người dân ở dưới vẫn lặng lẽ giữ lòng thủy chung với niềm tin của mình.

Họ lập ra truyền thống riêng khiến dân Ta chẳng phải dân Tầu mà có những màu sắc đa diện và độc đáo. Trải qua thời phong kiến tự Hán hóa đến thời thực dân rồi cộng sản, truyền thống đó vẫn còn.

Và ngày nay, Liễu Hạnh vẫn sống. Nàng Công chúa hay con hát năm xưa không chỉ hiện diện trong sinh hoạt của người hầu đồng mà còn rầm rộ thu hút du khách từ mọi nơi và cho phép một chế độ xuất thân là vô thần được vênh váo nói về "bản sắc dân tộc"....

Qua thế kỷ 21, ảnh hưởng của Liễu Hạnh có thể được đọc thấy trên một tấm bích chương hai về của nhà nước tại huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định trong dịp lễ hội ở Phủ Dầy có cả vạn người tham dự: "Phát huy thuần phong mỹ tục của lễ hội truyền thống – Kiên quyết bài trừ mê tín dị đoan và hủ tục".

 Vế dưới mới diễn tả sự bất lực của chế độ trước một nàng Liễu Hạnh vô hình mà đầy bóng.

______________

Trích từ trang 87 Việt Báo Xuân Giáp Ngọ. 

Bà Olga Dror vừa phiên dịch sang Việt ngữ cuốn "Giải Khăn Sô Cho Huế" của Nhã Ca, với rất nhiều chú giải công phu về biến cố Mậu Thân 1968 tại Huế. Cuốn sách Mourning Headband for Hue: An Account of the Battle for Hue, Vietnam 1968” do Indiana University Press xuất bản đang được nhà Amazon phát hành. Quý vị có thể đặt mua trước trên website của Amazon theo mạch dẫn sau đây:
 
http://www.amazon.ca/dp/0253014174/ref=cm_sw_r_fa_asp_sPNsG.0S1HXRY

Cưỡi Lên Sấm Sét


Nguyễn-Xuân Nghĩa - Việt Báo Xuân Giáp Ngọ 2014

Một bút ký chiến trường đầy nhân bản


* Bìa sách Ride the Thunder của Richard Botkin *


Trong năm Giáp Ngọ, chúng ta sẽ được xem một cuốn phim hiếm hoi về cuộc chiến Việt Nam trong đó vai trò oai hùng của Quân lực Việt Nam Cộng Hoà được mô tả với sự trung thực. Tác phẩm điện ảnh này dựa trên những dữ kiện thật, được trình bày trong cuốn "Ride the Thunder – A Vietnam War Story of Honor and Triumph" của Richard Botkin. Chủ biên Nguyễn-Xuân Nghĩa của Giai phẩm Xuân Việt Báo đã hàn huyên cùng tác giả và ghi lại như sau...


Richard Botkin là người ăn chay.

Vào hoàn cảnh khác, chúng ta có thể gặp ông sau một bàn giấy đồ xộ của tổ hợp tài chánh Morgan Stanley với tấm bảng đồng ngoài cửa chỉ rõ chức vụ là Senior Vice President. Phụ trách phân bộ Quản trị Tài sản trong một tập đoàn đang khai thác gần 400 tỷ Mỹ kim tại hơn bốn chục quốc gia qua cả ngàn văn phòng hoạt động trên toàn cầu, ông là một nhà cố vấn tài chánh mà giới có tiền đầu tư rất nên gặp.

Văn phòng của ông nằm tại miền Bắc, gần thủ phủ Sacramento của California, mà chúng tôi gặp ông ở miền Nam California, và không để nói về đầu tư tài chánh. Đúng hơn, để nói về một dịch vụ đầu tư khác.

Richard Botkin đã từng là sĩ quan Thủy quân Lục chiến, như ta có thể thấy từ cái áo thung màu đỏ mang phù hiệu của binh chủng. Sau nhiều năm trong quân ngũ, ông tiếp tục là sĩ quan trừ bị, tổng cộng 15 năm. Như nhiều cựu chiến binh Hoa Kỳ, sau khi dâng hiến tuổi thanh niên Tổ Quốc, từ năm 1995, ông bước qua một ngành hoạt động khác và rất thành công.

Nhưng sau đó, ông đầu tư thêm công sức vào một việc khác thường.

Richard Botkin dành năm năm tìm hiểu, thu thập tài liệu để viết lại một giai đoạn của một cuộc chiến mà ông không tham dự vì còn quá trẻ, cuộc chiến tại Việt Nam.

Người viết này giật mình nghĩ lại về một chủ điểm chiếm 14 chương trong cuốn sách 42 chương.

Thời đó, Hoa Kỳ chuẩn bị triệt thoái theo chủ trương "Việt hoá cuộc chiến". Cuộc tấn công rất quy mô của quân đội Cộng sản Bắc Việt vào đầu năm 1972 được họ gọi là "Chiến dịch Nguyễn Huệ" và nhắm vào ba bốn vùng lãnh thổ của miền Nam. Phía Hoa Kỳ gọi là "Eastern Offensive" – "cuộc Tấn công mùa Phục sinh". Bị tấn công gần như bốn bề, phía Việt Nam Cộng Hoà lại không có tên chính thức!

May là nhờ Phan Nhật Nam mà ký ức của chúng ta được ghi đậm nét với "Mùa Hè Đỏ Lửa". Sau đó là những chiến công tại Quảng Trị, Bình Long, An Lộc... để miền Nam còn tồn tại qua một năm có tranh cử Tổng thống tại Hoa Kỳ.

Tác giả Richard Botkin cùng chủ biên Nguyễn-Xuân Nghĩa


Câu chuyện khởi đầu như vậy. Nhìn người khách phong phanh với chiếc áo thung đỏ khi trời đã trở lạnh, chúng tôi có sự tò mò của nhà báo:

Lý do nào khiến ông mất năm năm đi làm chuyện viết sách? Trả lại sự thật cho lịch sử, thế thôi! Ông có gặp trở ngại nào trong việc tìm kiếm và thu thập tài liệu về một giai đoạn mà nhiều người Mỹ muốn quên hay chăng? Thưa rằng ký ức của tập thể thật ra vẫn đầy ắp và những người trong cuộc đều không quên được. Thư khố của quân đội Hoa Kỳ vẫn rộng mở. Vả lại, tâm lý thời nay đã khác xưa. Người ta muốn tìm về sự thật sau nhiều ghi nhận quá thiên lệch về cuộc chiến này.

Nhiều người Mỹ vẫn hiểu lầm mà tự hỏi vì sao mình lại "đánh" Việt Nam khi ngày nay thấy người Việt khắp nơi, kể cả và nhất là những người miền Bắc, vẫn có đầy thiện cảm với Hoa Kỳ! Họ không phân biệt được người dân là nạn nhân ở dưới và chế độ cai trị ở trên.

Với Richard Botkin, cái khó không phải là thu thập dữ kiện, kể cả đi tìm lại chiến trường xưa tại Vùng I, dù là điều ấy đòi hỏi khá nhiều thời giờ. Thách đố ở đây là ghi lại cho đời sau hiểu được tâm cảnh của những người trong cuộc về cuộc chiến đằng đẵng này, và nhất là về những gì xảy ra sau đó cho người bại trận....

Cho đến nay, cuốn sách đã được nhiều người Mỹ điểm lại với lời khen ngợi, kể cả một số tướng lãnh Hoa Kỳ từng là sĩ quan tác chiến tại Việt Nam. Người viết này thì chú ý đến phần kết của cuốn sách, rất lạc quan, có hậu.

Richard Botkin hoàn tất cuốn sách như một bút ký chiến trường dày hơn 600 trang, mỗi chương lại là một tiểu mục như trong một bản phân cảnh kỹ thuật của điện ảnh. Nét độc đáo của tác phẩm không chỉ là một kho dữ kiện khô khan về các khía cạnh quân sự mà là những hình ảnh đầy nhân bản của con người thật ở trong cuộc chiến. Con người thật ở đây là các chiến binh Hoa Kỳ và Việt Nam. Không chỉ là một kho tài liệu về chiến tranh, cuốn sách là một mô tả rất tỉ mỉ về đời sống trong thời chiến.

Với chiến binh Hoa Kỳ, chiến tranh khởi sự khi họ đặt chân lên lãnh thổ nghi ngút khói lửa và chấm dứt khi họ ra về. Ở giữa còn có nhiều chương trình nghỉ ngơi giải trí. Với người chiến binh Việt Nam, chiến tranh là đời sống, là thường trực, triền miên, không có hậu phương hay chiến tuyến. Mà cũng chẳng kết thúc vào năm 1975.

Vì vậy, viết về người lính chiến Việt Nam, Bút ký Chiến trường của Richard Botkin mở đầu với đám cưới của một sĩ quan Thủy quân Lục chiến Việt Nam Cộng Hoà. Ông Lê Bá Bình. Rất người, rất bình thường trong cả chuỗi phi thường tương phản với hoàn cảnh của một chiến binh Mỹ.

Trong câu chuyện, tất nhiên chúng tôi nói về chiến công của một Đại úy Thủ quân Lục chiến Mỹ là John Ripley. Ông len qua mưa đạn với mấy trăm ký thuốc nổ để phá cầu Đông Hà và chặn cơn thác lũ của Cộng quân đang tràn xuống. Nhờ cuốn sách, người đọc biết thêm về gia đình người hùng Ripley và truyền thống đáng kính của nhiều người Mỹ: bảo vệ tổ quốc là nhiệm vụ trên hết. Mà không chỉ có Ripley. Chúng ta có rất nhiều chân dung đã bị lãng quên.

Chiến công phá cầu Đông Hà vắt qua Cam Lộ đã đi vào quân sử Hoa Kỳ với mô hình ba chiều được dựng lại làm chủ đề huấn luyện Thủy quân Lục chiến. Tương tự như nhiều chiến tích khác của quân lực Hoa Kỳ, câu chuyện cây cầu cũng được viết lại thành sách, như trong cuốn "The Bridge at Dong Ha" của Đại tá John Grider Miller.  


Chiến công phá cầu Đông Hà vắt qua Cam Lộ đã đi vào quân sử Hoa Kỳ với mô hình ba chiều được dựng lại làm chủ đề huấn luyện Thủy quân Lục chiến Mỹ.


Cuốn Ride the Thunder còn có nội dung bao quát hơn vậy. Mà không chỉ có những tường thuật sống động về các đơn vị tác chiến của Việt Nam, hay về những người anh hùng như Thiếu tá Lê Bá Bình của Thủy quân Lục chiến. Chi tiết ấy khiến chúng tôi trở lại với Bat-Hai-Một (Bat-21), một chuyện xảy ra ngay từ những ngày đầu tiên của Mùa Hè Đỏ Lửa.

 "Bat-21" là mật hiệu của một máy bay trinh sát mà cũng là câu chuyện về việc giải cứu một sĩ quan quân báo Mỹ bị rơi sau phòng tuyến địch. Việc giải cứu được coi như một chiến tích của Quân lực Mỹ, với sự góp sức của một biệt kích của Hải quân Việt Nam. Sau này ông là một trong hai người lính chiến Việt Nam được huy chương Navy Cross rất cao quý của Hải quân Mỹ. Một sĩ quan Không quân hồi hưu là William C. Anderson đã viết cuốn Bat*21, được dựng lại thành phim với các diễn viên khét tiếng là Gene Hackman và Danny Glover....

Trong Ride the Thunder, Richard Botkin nhẹ nhàng nêu vấn đề. Trong vụ này, vì nhu cầu giải cứu một sĩ quan Mỹ, lệnh tấn công bị hoãn mất mươi ngày khiến cả ngàn binh lính Việt Nam hy sinh. Rồi những người lính chiến đã hy sinh còn bị nhục mạ là thuộc về một quân đội hèn nhát của một chính quyền tham nhũng!

Ông không giấu được sự bất bình khi nhắc đến những sai lạc đó và muốn viết về một sự thật khác trong tinh thần bình đẳng giữ các chiến binh Mỹ-Việt, với sự tương kính dành cho người lính chiến Việt Nam. Với người lính Thủy quân Lục chiến Mỹ là Richard Botkin, Thủy quân Lục chiến Việt Nam là những ưu binh rất đáng kính trọng.

Trở lại động lực nguyên thủy để viết sách thì với nghề kinh doanh của ông, Richard Botkin không viết để kiếm tiền. Ông còn dùng một phần của số thu cho Injured Marine Semper Fi Fund, một cơ quan thiện nguyện giúp thương binh Thủy quân Lục chiến Mỹ cùng gia đình. Ông cũng kín đáo giúp cựu chiến binh Thủy quân Lục chiến Việt Nam.

"Cựu chiến binh chúng tôi có nhiều chương trình yểm trợ, kể cả giúp đỡ những người bị hội chứng chấn động tâm thần sau khi tác chiến về. Những người anh em của chúng tôi trong Quân lực Việt Nam thì chẳng có gì. Khi phải bó tay thua trận thì họ mất hết, tự do, gia đình, quê hương...."

Bây giờ thì Richard Botkin còn bỏ tiền túi cùng với bằng hữu sản xuất cuốn phim với hy vọng trình chiếu trong năm 2014. Dựa trên chuyện thật ở ngoài đời, cuốn phim sẽ đem lại cái nhìn công bình hơn về vai trò của các đơn vị tác chiến Cộng Hòa trong cuộc chiến. Cùng lúc đó, một số bằng hữu người Việt cũng đang phiên dịch tác phẩm này sang Việt ngữ cho người Việt.

Nhiều người có thói quen là ít xem truyện mà chỉ xem cuốn phim dựng lên từ cuốn truyện. Họ có thể nhìn toàn cuộc ở những góc cạnh bắt mắt mà thiếu chiều sâu. Chúng ta nên tránh điều ấy.

Vì vậy, ta nên tìm đọc Ride the Thunder và nhất là yêu cầu các thư viện ở địa phương của mình nên có cuốn sách để mọi người Mỹ đều có dịp đọc. Sau đó thì thưởng thức cuốn phim - và nhìn lại Quảng Trị với niềm tự hào.

Cuối phần hàn huyên về một cuộc chiến đã qua, chúng tôi đề cập tới chuyện hiện đại.

Tổ hợp Morgan Stanley có một kinh tế trưởng sau này là Chủ tịch phân bộ Á Châu, nay đã về hưu đi dạy học. Vì theo dõi những phân tích kinh tế và tài chánh của nhân vật này từ vài chục năm qua, chúng tôi hỏi thẳng Richard Botkin về vị đồng nghiệp trong Morgan Stanley. Câu trả lời là một cái lắc đầu rất mạnh!

Không chỉ đồng ý về nội dung Ride the Thunder, chúng tôi còn gật gù với nhau về cái nhìn của chuyên gia kinh tế này khi ông ta hết lời ngợi ca kinh tế Trung Quốc. Trật lấc cả!


***

Khi chuẩn bị một số báo Xuân, người viết có một cái thú đau thương là phải đọc nhiều sách. Đọc nhiều là cái thú, đau thương là khi có rất ít thời giờ. Với cuốn Ride the Thunder thì đây là một cái thú đau thương trong nghĩa đen. Đau thương vì kết cục mà ai cũng biết về cuộc chiến. Cái thú là khi thấy có người nhìn ra và viết lại về những trang sử anh hùng của người lính chiến.

Xin cám ơn Richard Botkin.

___________________

Trích từ trang 61 Xuân Việt Báo Giáp Ngọ - Hãy yêu cầu thư viện địa phương của mình có cuốn sách này để nhiều người Mỹ cùng đọc, và biết về nhiều sự thật bị lãng quên.