Hiển thị các bài đăng có nhãn PHÁP LUẬT VÀ QUAN HỆ QUỐC TẾ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn PHÁP LUẬT VÀ QUAN HỆ QUỐC TẾ. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 6 tháng 7, 2009

LUẬT ÁP DỤNG ĐỐI VỚI THỎA THUẬN TRỌNG TÀI TRONG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

THS. TRẦN MINH NGỌC

Ở Việt Nam, khi bàn tới vấn đề luật áp dụng trong trọng tài thương mại quốc tế, người ta thường chỉ nhắc tới luật điều chỉnh nội dung tranh chấp và luật điều chỉnh tố tụng trọng tài mà chưa dành sự quan tâm đáng kể tới luật áp dụng cho thoả thuận trọng tài. Luật áp dụng đối với thoả thuận trọng tài khác với luật điều chỉnh nội dung tranh chấp (từ hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng) và luật điều chỉnh tố tụng trọng tài. Luật này được sử dụng để điều chỉnh các vấn đề liên quan tới thoả thuận trọng tài như sự giải thích, tính hợp pháp, hiệu lực, phạm vi, và huỷ bỏ thoả thuận trọng tài[1]. Bài viết tập trung trả lời cho câu hỏi: Luật nào sẽ giải quyết vấn đề hiệu lực của thoả thuận trọng tài?

1. Điều khẳng định trước tiên là, thoả thuận trọng tài phải tuân thủ luật của nước được áp dụng đối với thoả thuận trọng tài (dù là một điều khoản trong hợp đồng hay một thoả thuận được lập ngoài hợp đồng vào thời điểm phát sinh tranh chấp) nếu các bên mong muốn tranh chấp sẽ được giải quyết bằng trọng tài chứ không phải là một phương pháp khác; hơn nữa là, phán quyết trọng tài cuối cùng sẽ có hiệu lực và được bảo đảm thi hành. Trên thực tế, hiệu lực của thoả thuận trọng tài được xem xét trong hai trường hợp sau đây:

Trường hợp 1: Khi xuất hiện một sự phản đối thẩm quyền của trọng tài được đưa ra trước hội đồng trọng tài

Đây là trường hợp một khiếu nại về thẩm quyền của trọng tài được gửi tới hội đồng trọng tài khi hội đồng đang trong quá trình giải quyết vụ việc nhưng chưa đưa ra phán quyết cuối cùng. Khiếu nại về thẩm quyền trọng tài khá đa dạng, đó có thể là sự viện dẫn về sự không rõ ràng trong lựa chọn toà án hay trọng tài của thoả thuận trọng tài, hay lựa chọn một tổ chức trọng tài không có trên thực tế để xét xử tranh chấp v.v.. Để xác định xem trọng tài có thẩm quyền không, lúc này cần phải căn cứ vào thoả thuận trọng tài. Nhìn chung, trong trường hợp này, các trọng tài viên đều tôn trọng luật do các bên thoả thuận lựa chọn điều chỉnh thoả thuận trọng tài để xác định tính hợp pháp của thoả thuận trọng tài. Nếu các bên đã không có bất kỳ sự thoả thuận chọn luật nào như vậy, thực tiễn trọng tài thường đi theo các hướng giải quyết khác nhau[2]. Có ba hướng giải quyết chính sau đây:

Thứ nhất, một số trọng tài viên đã đưa ra phán quyết rằng, nếu thiếu vắng sự chọn luật của các bên, thoả thuận trọng tài sẽ được điều chỉnh bởi luật của nước nơi tiến hành trọng tài (place of arbitration). Nguyên tắc này được thể hiện trong nhiều phán quyết của toà án trọng tài thuộc Phòng thương mại và công nghiệp Bungari, nó cũng nhận được sự đồng tình của các trọng tài viên thuộc Hiệp hội trọng tài Mỹ AAA. Trong vụ Baques Centroamericanos v. Petroleo SA (1988), Hội đồng đã tuyên rằng: Luật Mỹ sẽ được áp dụng để xem xét hiệu lực của thoả thuận trọng tài vì trọng tài đã được tiến hành tại New York.

Thứ hai, một số trọng tài lại có quan điểm khác, theo họ, thoả thuận trọng tài được điều chỉnh bởi luật áp dụng đối với nội dung tranh chấp. Phán quyết 5/9/1977 của Hội đồng trọng tài thuộc Hiệp hội buôn bán dầu, chất béo và hạt chứa dầu Hà Lan ghi rõ: “… luật áp dụng đối với nội dung tranh chấp cũng được áp dụng đối với việc xem xét hiệu lực của điều khoản trọng tài.”

Thứ ba, theo quan điểm khác, một số trọng tài lại tin tưởng vào các quy tắc trọng tài của tổ chức trọng tài mà các bên đã lựa chọn để giải quyết tranh chấp. Họ cho rằng, cần phải dựa vào những quy tắc này để điều chỉnh các vấn đề của thoả thuận trọng tài. Vụ việc số 5486 năm 1989 do trọng tài ICC giải quyết là một tranh chấp phát sinh giữa các bên liên doanh: một bên là công ty Bỉ và phía bên kia là công ty Tây Ban Nha về hiệu lực của thoả thuận trọng tài. Toà án trọng tài ICC đã ra phán quyết về luật điều chỉnh điều khoản trọng tài như sau: “Vì mục đích của tố tụng trọng tài, các bên đã thoả thuận áp dụng các quy tắc trọng tài ICC… và việc làm như vậy, biến các quy tắc của một tổ chức trọng tài quốc tế thành nguồn luật điều chỉnh thoả thuận trọng tài… do đó, hiệu lực của điều khoản trọng tài phải được xác định dựa vào các quy tắc trọng tài ICC.”

Trường hợp 2: Khi việc công nhận và thi hành phán quyết trọng tài được đặt ra

Vào giai đoạn này, nguyên tắc thoả thuận trọng tài được điều chỉnh bởi luật do các bên lựa chọn được sử dụng khá phổ biến trong pháp luật các nước cũng như các quy tắc tố tụng trọng tài quốc tế. Về nguyên tắc, điều khoản trọng tài độc lập với phần còn lại của hợp đồng (điều này được thừa nhận rộng rãi trên thế giới), nên các bên có quyền thoả thuận một luật riêng để điều chỉnh điều khoản trọng tài mà không phải dựa vào luật điều chỉnh nội dung hợp đồng. Nếu muốn một luật riêng như vậy, họ cần thoả thuận rõ về việc áp dụng luật đó trong hợp đồng hoặc một văn bản riêng. Tuy nhiên trên thực tế, hiếm khi các bên thoả thuận áp dụng luật riêng cho thoả thuận trọng tài mà mặc nhiên sử dụng ngay luật điều chỉnh nội dung hợp đồng (thường được thoả thuận dưới dạng một điều khoản hợp đồng).

Trong trường hợp các bên không có thoả thuận như vậy, nhiều hệ thống pháp luật thừa nhận nguyên tắc luật của nước nơi phán quyết trọng tài được tuyên sẽ thay thế. Nguyên tắc này được tìm thấy gián tiếp qua các quy định về công nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài trong các luật trọng tài trên thế giới. Khoản 1 điều 54 Luật Trọng tài Thuỵ Điển 1999 quy định: “Phán quyết trọng tài nước ngoài có thể bị từ chối công nhận và thi hành ở Thuỵ Điển nếu bên bị chống lại quyền lợi chứng minh được rằng… thoả thuận trọng tài không hợp pháp theo luật của nước mà các bên đã chọn, nếu họ không đạt được thoả thuận như vậy, theo luật của nước phán quyết trọng tài được tuyên”. Khoản II điều 38 Luật Trọng tài Brazil quy định: “… phán quyết trọng tài nước ngoài có thể bị từ chối công nhận và thi hành nếu bị đơn chứng minh được rằng thoả thuận trọng tài không có hiệu lực theo luật của nước mà các bên đã chọn, nếu thiếu điều này, theo luật của nước nơi phán quyết trọng tài được tuyên”. Nội dung tương tự cũng được ghi nhận tại điều 103(2)(b) Luật Trọng tài Anh 1996: “Công nhận và thi hành phán quyết trọng tài có thể bị từ chối nếu bị đơn chứng minh được rằng, thoả thuận trọng tài không hợp pháp theo luật của nước các bên đã chấp thuận nó, nếu không có điều này, theo luật của nước nơi phán quyết trọng tài được tuyên.”

Hoặc theo điều 34(2)(a)(i) luật mẫu trọng tài UNCITRAL: “Một quyết định chỉ có thể bị toà án theo quy định tại Điều 6 huỷ trong trường hợp… thoả thuận nói trên không có giá trị pháp lý theo luật mà các bên đã chọn để áp dụng hoặc theo luật của quốc gia nơi quyết định được tuyên trong trường hợp mà các bên không ghi rõ”. Nội dung tương tự cũng được thể hiện tại điều V Công ước NewYork 1958 về công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài.

2. Khi nghiên cứu về luật áp dụng cho thoả thuận trọng tài cũng cần phân biệt với luật điều chỉnh năng lực chủ thể các bên ký kết thoả thuận trọng tài (capacity). Đây là hai vấn đề khác nhau nhưng có mối liên quan mật thiết với nhau, một thoả thuận trọng tài chỉ có hiệu lực nếu các bên thoả thuận nó có đầy đủ tư cách chủ thể. Vậy tư cách chủ thể của các bên tham gia thoả thuận trọng tài được xác định theo cơ sở pháp lý nào?

Trong khi các bên tham gia trọng tài được thoả thuận về luật điều chỉnh nội dung hợp đồng và thoả thuận trọng tài thì họ lại không được phép làm như vậy với việc điều chỉnh năng lực chủ thể ký kết thoả thuận trọng tài. Trên thực tế, việc xác định năng lực chủ thể ký kết hợp đồng và thoả thuận trọng tài là như nhau và thường được đặt ra trong hai trường hợp: thứ nhất, khi toà án một nước xem xét yêu cầu huỷ quyết định trọng tài hay từ chối công nhận, thi hành quyết định trọng tài; thứ hai, khi trọng tài xem xét thoả thuận trọng tài có hiệu lực không.

Trong trường hợp thứ nhất, tại điều V(1)(a) Công ước New York 1958 quy định: toà án có thể từ chối công nhận và thi hành quyết định trọng tài nếu theo luật áp dụng đối với các bên, họ không có đủ năng lực. Một quy định như vậy không chỉ rõ luật nào sẽ được áp dụng cho vấn đề xác định năng lực chủ thể mà để mở một khả năng áp dụng luật đa dạng. Tương tự như vậy, Điều 34(2)(a) luật mẫu UNCITRAL quy định: quyết định trọng tài bị toà án huỷ khi một trong các bên ký thoả thuận trọng tài không đủ năng lực ký kết thoả thuận trọng tài đó. Cả Công ước NewYork và luật mẫu mặc dù không chỉ rõ nhưng đều có khuynh hướng dựa vào các quy tắc xung đột của nước có toà án đang có thẩm quyền giải quyết vụ việc để chọn luật điều chỉnh vấn đề năng lực chủ thể ký kết thoả thuận trọng tài (conflict of law rules of the forum)[3]. Đại đa số các nước hiện nay đều sử dụng phương pháp chọn luật này cho năng lực chủ thể, và do đó, các quy tắc xung đột được ghi nhận trong tư pháp quốc tế của nước có toà án đang có thẩm quyền giải quyết vụ việc sẽ được áp dụng. Các quy tắc này thường là: áp dụng luật của nước mà các bên mang quốc tịch hay các bên cư trú đối với cá nhân, và luật quốc tịch đối với pháp nhân.

Ở trường hợp thứ hai, các trọng tài viên sẽ giải quyết vấn đề năng lực chủ thể ký kết thoả thuận trọng tài như thế nào? Nhiều quan điểm hiện nay cho rằng, các trọng tài viên không bắt buộc phải áp dụng các quy tắc xung đột của nơi tiến hành xét xử, bởi vì họ không phải là “các phương tiện của hệ thống pháp luật quốc gia như toà án quốc gia”. Điều này không có nghĩa là các trọng tài viên không quan tâm tới các quy tắc xung đột quốc gia nơi xét xử trọng tài, mà khuynh hướng chung hiện nay là trọng tài sẽ kết hợp các quy tắc xung đột quốc gia với các quy tắc xung đột trong các điều ước quốc tế về trọng tài được thừa nhận rộng rãi trên thế giới để tìm ra một quy tắc xung đột chung cho việc xác định năng lực chủ thể ký kết thoả thuận trọng tài [4]. Quy tắc chung này thường là luật quốc tịch của các bên (đối với cả cá nhân và pháp nhân).

Một vấn đề cần đề cập tới khi xác định năng lực chủ thể ký kết thoả thuận trọng tài là xác định năng lực chủ thể của quốc gia và các cơ quan nhà nước khi tham gia trọng tài. Mặc dù xu hướng chấp nhận trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp đang ngày một tăng lên trên thế giới, nhưng không phải tất cả các quốc gia đều ưa chuộng phương thức này để giải quyết các tranh chấp hợp đồng quốc tế có sự tham gia của nhà nước. Trong khi một số nước không có bất kỳ hạn chế nào đối với trọng tài trong giải quyết tranh chấp hợp đồng mà quốc gia tham gia với tư cách chủ thể, thì một số nước khác, vì những nguyên nhân lịch sử hay sự định kiến với trọng tài đã miễn cưỡng chấp nhận trọng tài theo trào lưu chung của thế giới. Ở những nước này, việc cấm đoán hay hạn chế quốc gia và các cơ quan nhà nước tham gia thoả thuận trọng tài được thể hiện khá rõ trong các đạo luật do nhà nước ban hành. Arập Xê út (Saudi Arabia) là một ví dụ điển hình của việc cấm đoán triệt để quốc gia hay các cơ quan nhà nước ký kết thoả thuận trọng tài: Nghị quyết số 58 của Hội đồng Bộ trưởng Arập Xê út 1963 quy định: “Nghiêm cấm tất cả các cơ quan chính phủ chấp thuận trọng tài với tư cách là một phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng phát sinh giữa các cơ quan này với các cá nhân hay các công ty”. Ở Cộng hoà Pháp, có thể tìm ra một sự hạn chế khả năng trọng tài của quốc gia và cơ quan nhà nước, sự hạn chế này chỉ áp dụng đối với trọng tài nội địa mà không áp dụng đối với trọng tài quốc tế. Điều này được thể hiện trong vụ San Carlo (2/5/1966), nguyên đơn là một cơ quan thuộc Chính phủ Pháp đã kiện ra toà án Pháp chống lại thuyền trưởng của một con tàu chở hàng lớn trong một hợp đồng vận chuyển quốc tế. Bị đơn sau đó đã yêu cầu toà án từ chối xét xử vụ việc với lý do các bên đã có một thoả thuận trọng tài. Toà án cấp sơ thẩm (the court of first instance) đã bác yêu cầu của bị đơn với lý do, theo luật Pháp, nguyên đơn không có khả năng trọng tài (không được ký thoả thuận trọng tài). Sau đó, bị đơn đã kháng cáo lên toà án cấp trên, và toà án này đã ra phán quyết rằng: mặc dù cấm đoán đệ trình tranh chấp tới trọng tài theo điều 83 và 1004 của Bộ luật Tố tụng dân sự là một vấn đề của chính sách nội địa, nhưng điều này sẽ không áp dụng đối với hợp đồng quốc tế trong đó có sự tham gia của cơ quan nhà nước. Trong luật Bỉ cũng tìm thấy một sự hạn chế về năng lực chủ thể của các cơ quan công quyền khi tham gia một thoả thuận trọng tài. Nhà nước chỉ có thể ký thoả thuận trọng tài khi một điều ước quốc tế có liên quan cho phép làm như vậy (Điều 1672(2) Bộ luật Tư pháp Bỉ 1972 - Belgian Code Judiciare).

3. Ở Việt Nam hiện nay, số vụ tranh chấp có liên quan tới thương mại quốc tế được xét xử bằng trọng tài không nhiều và tập chung chủ yếu tại Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Thực tiễn xét xử trọng tài thương mại quốc tế tại Việt Nam cho thấy, đối với các vấn đề về thoả thuận trọng tài, các trọng tài viên Việt Nam thường chỉ phải giải quyết sự mập mờ, không rõ nghĩa trong thoả thuận chọn trọng tài giải quyết tranh chấp, mà hiếm khi phải xác định luật áp dụng cho thoả thuận trọng tài vì vấn đề hiệu lực của nó, đặc biệt là trường hợp các bên tranh chấp không thoả thuận về luật áp dụng cho thoả thuận trọng tài. Hiện chưa có một phương pháp xác định luật áp dụng cho thoả thuận trọng tài có tính thống nhất trong xét xử trọng tài thương mại quốc tế ở Việt Nam. Có nghĩa là, với mỗi vụ việc, trọng tài sẽ có cách hành xử khác nhau. Điều này dễ tạo cảm giác tuỳ tiện trong xét xử, và theo chúng tôi là bất lợi trong việc phát triển thị trường trọng tài Việt Nam trong điều kiện thị trường này đang hết sức nhỏ bé và chưa nhận được nhiều sự quan tâm của giới kinh doanh trong và ngoài nước. Về lâu dài, khiếm khuyết này cần được khắc phục, góp phần phát triển một thị trường trọng tài Việt Nam ngang tầm với các nước trong khu vực và trên thế giới.

Liên quan tới việc xác định năng lực chủ thể ký kết thoả thuận trọng tài, điểm a khoản 1 Điều 370 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 quy định:

“1. Quyết định của trọng tài nước ngoài không được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam trong các trường hợp sau đây: a) Các bên ký kết thoả thuận trọng tài không có năng lực để ký kết thoả thuận đó theo pháp luật được áp dụng cho mỗi bên;…”

Điều khoản trên là không rõ ràng, bởi nó không chỉ ra được “pháp luật được áp dụng cho mỗi bên” là pháp luật nước nào, và thực tế cũng không có bất cứ nguyên tắc cụ thể nào giúp cho việc chọn luật điều chỉnh năng lực chủ thể ký kết thoả thuận trọng tài được đưa ra trong các văn bản pháp luật hướng dẫn Bộ luật Tố tụng dân sự. Sự thiếu vắng của một quy tắc chọn luật như vậy sẽ dẫn tới câu hỏi, toà án Việt Nam sẽ dựa vào các quy tắc xung đột của tư pháp quốc tế Việt Nam hay của nước nào đó có liên quan để xác định tư cách pháp lý của các chủ thể tham gia thoả thuận trọng tài? Câu hỏi này không thể trả lời dứt khoát với thực trạng pháp luật hiện nay, và rõ ràng, chúng ta cần phải khắc phục lỗ hổng pháp lý đó càng sớm càng tốt bởi số lượng các phán quyết trọng tài nước ngoài có yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam ngày càng tăng lên trong những năm gần đây do quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng của nước ta. Học tập kinh nghiệm của các nước, liệu chúng ta có thể sử dụng nguyên tắc, áp dụng các quy tắc xung đột của nước có toà án đang có thẩm quyền giải quyết vụ việc để chọn luật điều chỉnh vấn đề năng lực chủ thể ký kết thoả thuận trọng tài (conflict of law rules of the forum)?

Tóm lại, một thoả thuận trọng tài, trong bất kỳ bối cảnh nào, cũng sẽ có hiệu lực nếu phù hợp với các quy định trong luật được các bên thoả thuận. Tuy nhiên, nếu không có sự thoả thuận của các bên, thì không có bộ quy tắc nào về chọn luật điều chỉnh thoả thuận trọng tài được sử dụng chung cho các trọng tài viên. Việc xem xét luật điều chỉnh hiệu lực của thoả thuận trọng tài phụ thuộc vào từng giai đoạn tố tụng trọng tài mà sẽ có những quyết định riêng rẽ, chẳng hạn, luật nơi tiến hành trọng tài, luật nơi phán quyết được tuyên, luật điều chỉnh nội dung tranh chấp. Vì vậy, để tránh những rắc rối có thể xảy ra trong quá trình trọng tài, các bên nên dành thời gian để thoả thuận kỹ lưỡng về điều khoản trọng tài cũng như luật áp dụng đối với nó.

-----------

[1]David St.John Sutton, Judith Gill(2003), Russell on arbitration, Sweet and Maxwell, p.69.

[2]Okezie chukwumerije (1994), choice of law in international commercial arbitration, Quorum Books westport, conecticut law, p.36.

[3]David st.John sutton Judith Gill(2003), Russell on arbitration, Sweet and Maxwell, p.69.

[4]Okezie chukwumerije (1994), choice of law in international commercial arbitration, Quorum Books westport, conecticut law, p.40.

SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐIỆN TỬ

Trích dẫn từ:

http://www.nclp.org.vn/kinh_nghiem_quoc_te/luat-ap-dung-111oi-voi-thoa-thuan-trong-tai-trong-trong-tai-thuong-mai-quoc-te/?searchterm=Lu%E1%BA%ADt%20%C3%A1p%20d%E1%BB%A5ng%20%C4%91%E1%BB%91i%20v%E1%BB%9Bi%20tho%E1%BA%A3%20thu%E1%BA%ADn%20tr%E1%BB%8Dng%20t%C3%A0i%20trong%20tr%E1%BB%8Dng%20t%C3%A0i%20th%C6%B0%C6%A1ng%20m%E1%BA%A1i%20qu%E1%BB%91c%20t%E1%BA%BF

Thứ Năm, 28 tháng 5, 2009

TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC THỰC HIỆN CÁC TIÊU CHUẨN LAO ĐỘNG QUỐC TẾ CƠ BẢN ĐẾN KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA QUỐC GIA

THS. PHẠM TRỌNG NGHĨA – Bộ Lao động. Thương binh và Xã hội

Pháp luật lao động quốc tế bao gồm một hệ thống tiêu chuẩn lao động được thông qua ở cấp độ quốc tế (1). Theo thống kê của Tổ chức Lao động quốc tế (International Labour Organisation - ILO), các tiêu chuẩn lao động quốc tế được chia thành 22 nhóm khác nhau (2). Trong 22 nhóm tiêu chuẩn đó, có những tiêu chuẩn được công nhận rộng rãi như: (i) gắn chặt với quyền của người lao động; (ii) làm nền tảng cho việc bảo đảm, thực thi các tiêu chuẩn lao động quốc tế khác; (iii) mọi quốc gia thành viên của ILO phải tôn trọng và thúc đẩy thực hiện…

Những tiêu chuẩn lao động quốc tế đó được gọi là những tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản (TCLĐQTCB). Nhân dịp kỷ niệm tròn 90 ngày thành lập Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) (4/1919 - 4/2009), Tạp chí NCLP xin giới thiệu bài nghiên cứu đề cập đến các TCLĐQTCB, trong đó tập trung vào các vấn đề: (i) ý tưởng về các TCLĐQTCB; (ii) quan niệm về TCLĐQTCB; (iii) lý giải tại sau những tiêu chuẩn đó lại được coi là tiêu chuẩn “cơ bản”; đồng thời, (iv) đánh giá tác động của việc thực hiện các TCLĐQTCB này đối với năng lực cạnh tranh của quốc gia trên hai phương diện là khả năng thu hút FDI và khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu; qua đó, (v) đề xuất một số nội dung cần tiếp tục được nghiên cứu trong điều kiện Việt Nam hiện nay.

1. Ý tưởng về TCLĐQTCB

Toàn cầu hóa có ảnh hưởng mạnh mẽ đến vấn đề lao động cũng như đến pháp luật lao động (3). Chính những ảnh hưởng này đã dẫn đến nhiều quan điểm khác nhau về vai trò của các tiêu chuẩn lao động quốc tế, cũng như xác định như thế nào là TCLĐQTCB. Các quan điểm này bắt đầu xuất hiện từ khi cuộc chiến tranh lạnh chấm dứt. Khi đó, cuộc đối đầu giữa hai hệ chính trị khác nhau được thay thế bằng cuộc chiến giữa những người ủng hộ toàn cầu hóa tự do hoàn toàn với đặc trưng là tự do thương mại, tự do đầu tư, quyền sở hữu trí tuệ và một bên là những người ủng hộ việc lập ra các quy định toàn cầu để bảo vệ người lao động cũng như bảo vệ môi trường trước những ảnh hưởng tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa (4).

Quan điểm thứ nhất phủ nhận vai trò của ILO trong quá trình toàn cầu hóa. Những người theo quan điểm này cho rằng ILO có cách tiếp cận không lạc quan đối với quá trình toàn cầu hóa. Theo quan điểm của họ, thay vì thúc đẩy phát triển kinh tế để có thể đem lại lợi ích cho mọi người, ILO vẫn duy trì cách thức tiếp cận cũ, cách thức lập quy theo lối suy nghĩ của thế kỷ trước mà không thể hiện vai trò tích cực trong việc tiếp cận các cơ hội cũng như thách thức mới của nền kinh tế trong quá trình toàn cầu hóa (5). Những người theo quan điểm này, căn cứ vào chủ thuyết thương mại tự do (neo-liberal), họ coi các tiêu chuẩn lao động là rào cản đối với thị trường, và theo họ, điều kiện lao động sẽ được cải thiện từ quá trình phát triển kinh tế, và tất cả mọi người (trong đó tất nhiên có người lao động) sẽ được hưởng lợi từ quá trình toàn cầu hóa (6). Quan điểm này cho rằng, nếu như các tiêu chuẩn lao động được sử dụng để điều chỉnh những khuyết tật của thị trường lao động ở các quốc gia khác nhau, thì không có lý do gì để xây dựng các tiêu chuẩn lao động ở cấp độ quốc tế (7). Nhóm quan điểm này đi đến kết luận rằng, việc xây dựng và áp dụng các tiêu chuẩn lao động quốc tế là không cần thiết và vai trò của ILO cũng không cần thiết (8).

Quan điểm thứ hai đến từ những người theo trường phái thương mại công bằng (fair-trade); những tổ chức dân sự và nhóm những nhà hoạt động về quyền của người lao động (9). Những người theo quan điểm này cho rằng, bên cạnh những mặt tích cực, toàn cầu hóa cũng bộc lộ những mặt tiêu cực của mình. Trong quá trình toàn cầu hóa, nhiều vấn đề lao động bức xúc vẫn xảy ra. Tình trạng lao động trẻ em, lao động cưỡng bức, bóc lột, tình trạng phân biệt đối xử trong lao động, điều kiện lao động tồi tàn, người lao động bị bóc lột vẫn diễn ra nhiều và có xu hướng phức tạp hơn. Họ khẳng định rằng, trong bối cảnh toàn cầu hóa, các tiêu chuẩn lao động quốc tế càng đóng vai trò quan trọng hơn bao giờ hết (10). Tuy nhiên, những người theo quan điểm này cho rằng, ILO đã thất bại trong việc bảo đảm thi hành các tiêu chuẩn do chính mình ban hành và việc vi phạm các tiêu chuẩn lao động quốc tế vẫn rất phổ biến. Phương pháp bảo đảm thi hành các tiêu chuẩn lao động quốc tế của ILO dựa trên việc thuyết phục là chính cho nên không hiệu quả (11). Từ đó, họ đề xuất đưa các tiêu chuẩn lao động quốc tế vào trong các hiệp định thương mại và sử dụng chế tài thương mại đối với những quốc gia vi phạm pháp luật lao động quốc tế (12).

Qua nhiều tranh luận gay gắt, nhóm quan điểm thứ hai chiếm ưu thế hơn và vấn đề tiêu chuẩn lao động đã được đưa vào Chương trình nghị sự của Hội nghị Bộ trưởng WTO, tổ chức tại Singapore vào năm 1996. Về vấn đề tiêu chuẩn lao động, Hội nghị đi đến nhất trí rằng, các tiêu chuẩn lao động quốc tế là cần thiết trong bối cảnh toàn cầu hóa, và cần phải xác định đâu là các TCLĐQTCB để áp dụng trên phạm vi toàn cầu. Đối với đề xuất đưa các tiêu chuẩn lao động vào trong khuôn khổ WTO, có hai luồng ý kiến trái chiều nhau diễn ra tại Hội nghị. Các đại biểu đến từ các nước phát triển ủng hộ đề xuất đưa các tiêu chuẩn lao động vào trong khuôn khổ WTO, đồng thời sử dụng chế tài thương mại đối với những quốc gia vi phạm các tiêu chuẩn lao động đó (13). Nhưng ý kiến này bị phản đối kịch liệt bởi các đại biểu đến từ những nước đang phát triển, những đại biểu này cho rằng việc đưa các quy định về tiêu chuẩn lao động vào trong khuôn khổ WTO chính là sự ngụy trang của chủ nghĩa bảo hộ, thể hiện sự lo lắng của các nước phát triển đối với sự thành công trong hoạt động xuất khẩu của các nước đang phát triển (14). Cuối cùng, Hội nghị bác bỏ đề xuất đưa các tiêu chuẩn lao động quốc tế vào trong khuôn khổ WTO đồng thời, Hội nghị cũng khẳng định ILO là tổ chức phù hợp để giải quyết các vấn đề lao động ở phạm vi toàn cầu (15).

2. Các TCLĐQTCB là gì?

Đã có nhiều công trình nghiên nhằm xác định thế nào là các TCLĐQTCB trước khi WTO khẳng định về sự cần thiết của chúng. Năm 1989, thống kê từ 8 nghiên cứu trước đó về TCLĐQTCB cho thấy các tiêu chuẩn sau được nhắc đến nhiều nhất (16): Tự do hiệp hội và thương lượng tập thể (8 lần); Tuổi tối thiểu và lao động trẻ em (8 lần); Xóa bỏ lao động cưỡng bức (6 lần); Xóa bỏ phân biệt đối xử trong công việc (6 lần); An toàn vệ sinh lao động (6 lần). Một nghiên cứu khác vào năm 1995 đề xuất các TCLĐQTCB bao gồm: xóa bỏ lao động nô lệ, cưỡng bức; xóa bỏ lao động mất an toàn và nguy hiểm; giới hạn thời giờ làm việc của trẻ em; quyền lập hội và quyền thương lượng tập thể (17). Hội nghị thượng định thế giới về xã hội (The World Social Summit) tổ chức tại Copenhagen vào tháng 3 năm 1995 (18) và sau đó là Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế

(- OECD) năm 1996 (19), đều thừa nhận rằng, các tiêu chuẩn lao động về các vấn đề sau là các TCLĐQTCB: xóa bỏ lao động cưỡng bức; tự do hiệp hội; quyền tổ chức và thương lượng tập thể; xóa bỏ lao động trẻ em; chống phân biệt đối xử trong lao động.

Sau nhiều năm nghiên cứu và thảo luận căng thẳng (20), ngày 18/6/1998, ILO thông qua Tuyên bố về các Nguyên tắc cơ bản và các Quyền tại nơi làm việc (Declaration on Fundamental Principles and Rights at Work)(21). Tuyên bố của ILO khẳng định 4 nhóm tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản gồm:

- Tự do hiệp hội và quyền thương lượng tập thể;

- Xóa bỏ mọi hình thức lao động cưỡng bức và lao động bắt buộc;

- Xóa bỏ có hiệu quả lao động trẻ em;

- Xóa bỏ phân biệt đối xử trong công việc (22).

Những TCLĐQTCB nêu trên được quy định trong 8 Công ước của ILO, gồm: Công ước số 87 về quyền tự do hiệp hội và việc bảo vệ quyền được liên kết (Freedom of Association and Protection of the Right to Organise Convention, 1948, No. 87); Công ước số 98 về quyền được tổ chức và thương lượng tập thể (Right to Organise and Collective Bargaining Convention, 1949, No.98); Công ước số 29 về lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc (Forced Labour Convention, 1930, No.29); Công ước số 105 về xóa bỏ lao động cưỡng bức (Abolition of Forced Labour Convention, 1957,No.105); Công ước số 138 về tuổi lao động tối thiểu (Minimum Age Convention, 1973, No. 138); Công ước số 182 về loại bỏ những hình thức sử dụng lao động trẻ em tồi tệ nhất (Worst Forms of Child Labour Convention, 1999, No.182); Công ước số 100 về trả công bình đẳng giữa lao động nam và lao động nữ cho một công việc có giá trị ngang nhau (Equal Remuneration Convention, 1951, No.100); Công ước số 111 về phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp (Discrimination (Employment and Occupation) Convention, 1958, No. 111).

Quan điểm của ILO về TCLĐQTCB nhanh chóng được thừa nhận và khẳng định bởi Liên hiệp quốc (23), các tổ chức quốc tế như: Ngân hàng phát triển châu á (ADB)(24), Ngân hàng Thế giới (the World Bank)(25), Quỹ tiền tệ Quốc tế (the IMF)(26), OECD(27), cũng như nhiều học giả trên toàn thế giới (28).

3. Tại sao những tiêu chuẩn lao động quốc tế nêu trên lại là tiêu chuẩn lao động “cơ bản”?

Thứ nhất, các TCLĐQTCB gắn chặt với những quyền cơ bản của con người, của người lao động. Những quyền này được quy định trong Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948 (29), Công ước quốc tế về các quyền chính trị và dân sự năm 1966 (30).

Thứ hai, các TCLĐQTCB đóng vai trò quan trọng cho sự hoạt động có hiệu quả của nền kinh tế thị trường. Các tiêu chuẩn này chứa đựng các nguyên tắc điều chỉnh sự vận hành của thị trường lao động, chúng tương thích với nguyên tắc bảo vệ quyền sở hữu tài sản và nguyên tắc tự do giao dịch trong nền kinh tế thị trường (31). Ngoài ra, các tiêu chuẩn lao động nêu trên, đặc biệt là tiêu chuẩn về tự do hiệp hội và quyền thương lượng tập thể, khi được thi hành sẽ tạo ra cơ sở pháp lý cho người lao động và người sử dụng lao động thiết lập các tiêu chuẩn lao động khác trong quan hệ lao động (32). Ví dụ, đại diện của người lao động và người sử dụng lao động có thể thương lượng về tiền lương, thời gian làm thêm, thời gian nghỉ phép năm… Đây chính là nền tảng cho sự vận hành của thị trường lao động.

Thứ ba, việc thi hành các TCLĐQTCB không làm tăng chi phí xã hội. Trong hệ thống các tiêu chuẩn lao động quốc tế, có nhưng tiêu chuẩn được gọi là tiêu chuẩn “cash

standards”(33) (phân biệt với “core standards”), ví dụ như tiêu chuẩn về tiền lương tối thiểu, về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, về bảo hiểm xã hội… Việc thi hành những tiêu chuẩn này sẽ phát sinh chi phí cho người sử dụng lao động, do vậy việc thi hành chúng phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia khác nhau. Ngược lại, việc thi hành các TCLĐQTCB không làm phát sinh chi phí, không làm tăng giá thành lao động và không làm ảnh hưởng đến người sử dụng lao động (34).

Thứ tư, các TCLĐQTCB có tính bắt buộc chung (35). Đối với các tiêu chuẩn lao động quốc tế khác được quy định trong các Công ước và khuyến nghị của ILO, một quốc gia chỉ có nghĩa vụ bắt buộc thi hành sau khi đã phê chuẩn Công ước, đối với khuyến nghị, quốc gia không có nghĩa vụ bắt buộc thi hành (36). Trong trường hợp của các TCLĐQTCB, mọi quốc gia thành viên của ILO có nghĩa vụ tôn trọng, thúc đẩy và ghi nhận ngay cả khi thành viên đó chưa phê chuẩn các Công ước tương ứng của ILO (37). Cơ sở cho việc áp dụng nghĩa vụ này là bởi vì, theo quan điểm của ILO, các TCLĐQTCB là các tiêu chuẩn tối thiểu và có thể áp dụng cho mọi quốc gia, không phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, trình độ phát triển của quốc gia. Các TCLĐQTCB không tạo ra một mức độ mới của tiền lương, điều kiện an toàn vệ sinh lao động, chế độ bảo hiểm xã hội (38)…

Thứ năm, các TCLĐQTCB được theo dõi, giám sát thực hiện theo một cơ chế đặc biệt. Cơ chế này yêu cầu mọi quốc gia thành viên của ILO, ngay cả khi quốc gia thành viên đó chưa phê chuẩn các Công ước tương ứng, có nghĩa vụ nộp Báo cáo quốc gia hàng năm cho ILO. Báo cáo quốc gia này phải nêu rõ các biện pháp mà quốc gia thành viên đó đã thực hiện để thúc đẩy việc thực hiện các TCLĐQTCB tại quốc gia mình. Báo cáo này được Hội đồng điều hành (Governing Body) của ILO xem xét. Văn phòng Lao động quốc tế (International Labour Office) có thể thành lập một nhóm chuyên gia để nghiên cứu Báo cáo hàng năm của các quốc gia, từ đó nhóm chuyên gia này sẽ đưa ra các nhận xét và đánh giá của mình bằng văn bản. Bên cạnh đó, Tổng giám đốc của ILO (General Director) có nhiệm vụ làm Báo cáo toàn cầu hàng năm về việc thực hiện các TCLĐQTCB để trình cho Hội nghị Lao động quốc tế (International Labour Conference)(39). Từ năm 2000, sau khi Tuyên bố về Các nguyên tắc và Quyền cơ bản tại nơi làm việc được ILO thông qua năm 1998, mỗi năm Tổng giám đốc ILO có một Báo cáo toàn cầu đánh giá việc thực hiện một nhóm TCLĐQTCB. Cụ thể: năm 2000 - Báo cáo toàn cầu về quyền hiệp hội và thương lượng tập thể; năm 2001 - Báo cáo toàn cầu về lao động cưỡng bức; năm 2002 - Báo cáo toàn cầu về lao động trẻ em; năm 2003 - Báo cáo toàn cầu về phân biệt đối xử trong lao động; năm 2004 - Báo cáo toàn cầu về quyền hiệp hội và thương lượng tập thể; năm 2005 - Báo cáo toàn cầu về lao động cưỡng bức; năm 2006 - Báo cáo toàn cầu về lao động trẻ em; năm 2007 - Báo cáo toàn cầu về phân biệt đối xử trong lao động; năm 2008 - Báo cáo toàn cầu về quyền hiệp hội và thương lượng tập thể (40).

4. Ảnh hưởng của việc thực hiện các TCLĐQTCB đến khả năng cạnh tranh của quốc gia

Quá trình toàn cầu hóa (với các đặc điểm nổi bật là: sự tăng trưởng của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), sự tăng trưởng của ngoại thương và sự tăng lên của quá trình di cư) cho thấy, các nền kinh tế mở cửa có điều kiện lao động tốt hơn so với những nền kinh tế khép kín (41). Toàn cầu hóa nói chung và sự phát triển kinh tế nói riêng có tác động mạnh mẽ đến điều kiện lao động, đến việc thực hiện các tiêu chuẩn lao động của mỗi quốc gia. Vậy, ngược lại, việc thi hành các tiêu chuẩn lao động quốc tế nói chung và các TCLĐQTCB nói riêng có làm ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế, đến khả năng cạnh tranh của mỗi quốc gia không?

4.1 nh hưởng của việc thực hiện các TCLĐQTCB đến việc thu hút FDI

Có nhiều quan điểm khác nhau về ảnh hưởng của FDI đến việc thi hành các tiêu chuẩn lao động cũng như ảnh hưởng của việc thi hành các TCLĐQTCB đến khả năng thu hút FDI (42). Quan điểm thông thường cho rằng, FDI bị hấp dẫn đến những quốc gia có điều kiện lao động thấp để tận dụng nguồn nhân công giá rẻ tại đó. Các học giả theo quan điểm này cho rằng, điều kiện lao động thấp là “thiên đường” cho nhà đầu tư nước ngoài (43) hay các nhà đầu tư nước ngoài thường tìm đến những quốc gia nơi mà tổ chức công đoàn hoạt động yếu kém, không có tiếng nói trọng lượng (44). Họ cho rằng hoạt động công đoàn mạnh có tác động tiêu cực đến FDI, hay nói một cách khác, sự yếu kém của quyền hiệp hội tỷ lệ thuận với lợi thế cạnh tranh trong thu hút FDI của quốc gia (45).

Tuy nhiên, thống kê về FDI trên phạm vi toàn cầu đã chứng minh điều ngược lại. Trên thực tế, những quốc gia có điều kiện lao động thấp, những nơi mà các TCLĐQTCB không được thi hành không phải là những quốc gia thu hút được nhiều FDI nhất. Tại sao lại như vậy?

Về mặt lý thuyết, điều kiện lao động thấp thường gắn liền với năng suất lao động thấp mà điều này không hề hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài (46). Mặt khác, khi xem xét địa điểm để đầu tư, nhà đầu tư nước ngoài thường đánh giá cao quy mô và mức độ tăng trưởng của thị trường, sau đó đến sự ổn định về chính trị và xã hội, chất lượng của lực lượng lao động. Nhà đầu tư coi các yếu tố trên quan trọng hơn các yếu tố như tiêu chuẩn lao động thấp, chi phí lao động rẻ (47). Hơn thế nữa, việc thi hành các TCLĐQTCB còn góp phần tăng khả năng thu hút FDI của quốc gia. Ví dụ như trường hợp các tiêu chuẩn về tự do hiệp hội và thương lượng tập thể. Việc thi hành các tiêu chuẩn này cho phép người lao động và người sử dụng lao động được tham gia nhiều hơn vào quá trình lập chính sách, tăng cường năng lực của người lao động trong quá trình thương lượng tập thể. Từ đó nâng cao tiếng nói của người lao động, tạo cơ chế bảo vệ người lao động tránh khỏi việc bị bóc lột, xây dựng quan hệ lao động ổn định, hài hòa và lành mạnh. Quan hệ lao động ổn định, hài hòa và lành mạnh là một trong những cơ sở để duy trì sự ổn định về chính trị và xã hội của quốc gia - điều kiện tiên quyết để thúc đẩy kinh tế và thu hút FDI (48).

Về mặt thực tế, các nghiên cứu thực nghiệm không tìm thấy được bất kỳ bằng chứng nào thể hiện mối liên hệ giữa tiêu chuẩn lao động thấp và sự tăng trưởng của FDI (49). Mà ngược lại, việc vi phạm các TCLĐQTCB (đặc biệt là các TCLĐQTCB về chống phân biệt đối xử trong lao động) sẽ dẫn đến việc suy giảm FDI và làm giảm tăng trưởng của nền kinh tế (50). FDI thường cao hơn ở những quốc gia có điều kiện lao động tốt hơn, những quốc gia mà các TCLĐQTCB được thi hành tốt hơn, những quốc gia mà quyền của người lao động được bảo vệ tốt hơn (51). Thực tế là, FDI của các nước phát triển - nơi các TCLĐQTCB được thi hành tốt - cao hơn FDI của các nước đang phát triển - nơi các TCLĐQTCB chưa được thi hành hoặc được thi hành nhưng chưa tốt. Thống kê của Diễn đàn Thương mại và Phát triển của Liên hiệp quốc (United National Conference on Trade and Development - UNCTAD) trong năm 2005, cho thấy tổng số FDI đổ vào các nước phát triển là 542 tỉ USD, trong khi đó số liệu tương tự của các nước đang phát triển chỉ là 334 tỉ USD (52).

4.2. ảnh hưởng của việc thực hiện các TCLĐQTCB đến khả năng xuất khẩu của quốc gia

Liên quan đến ảnh hưởng của việc thi hành các TCLĐQTCB đến hoạt động thương mại của quốc gia có nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng, việc thi hành các TCLĐQTCB, đặc biệt là các tiêu chuẩn về quyền tự do hiệp hội và thương lượng tập thể, tiêu chuẩn về chống phân biệt đối xử trong lao động sẽ ảnh hưởng xấu đến khả năng xuất khẩu của quốc gia (53).

Về mặt lý thuyết, việc cho phép sử dụng lao động cưỡng bức hoặc lao động trẻ em sẽ làm tăng nguồn cung lao động, điều này dẫn tới giá lao động sẽ giảm xuống, chi phí sản xuất hàng xuất khẩu sẽ giảm và sẽ tăng khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu. Tuy nhiên, các nghiên cứu của ILO (54) và một số học giả khác (55) lại cho thấy, lao động cưỡng bức và lao động trẻ em là hiện tượng không phổ biến trong các khu chế xuất và trong các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, đồng thời, số lượng lao động bị cưỡng bức cũng như lao động trẻ em trong khu vực này chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng số lao động bị cưỡng bức và lao động trẻ em trên toàn thế giới (56). Ngược lại, việc đưa trẻ em đến trường thay vì lao động trong nhà máy về lâu về dài sẽ nâng cao năng suất lao động thông qua việc xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng. Hơn thế nữa, việc tuân thủ các TCLĐQTCB về lao động cưỡng bức sẽ giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu tránh được sự tẩy chay của người mua ở những nước nhập khẩu (57). Đối với trường hợp phân biệt đối xử trong lao động, nếu một công ty phân biệt đối xử (ví dụ không tuyển lao động nữ, trả lương lao động không bình đẳng…) thì điều này sẽ làm giảm nguồn cung lao động cho công ty. Từ đó dẫn đến việc thu hút lao động có chất lượng vào làm cho công ty trở nên khó khăn hơn, tính cạnh tranh giữa những người lao động đang làm việc trong công ty này không cao. Những yếu tố này, cuối cùng dẫn đến năng suất lao động trong công ty sẽ bị sụt giảm.

Trên thực tế, nghiên cứu của Cees van Beer (1998)(58), của OECD (1996)(59) tìm thấy rất ít bằng chứng về sự tác động của các tiêu chuẩn lao động thấp đối với thương mại (đặc biệt là xuất khẩu). Không có bằng chứng nào chứng tỏ rằng các quốc gia có tiêu chuẩn lao động thấp chiếm được lợi thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế (60) mà ngược lại, nghiên cứu của OECD cũng cho thấy mối quan hệ tích cực giữa việc tăng trưởng xuất khẩu với việc tăng cường thực hiện các TCLĐQTCB (61). Việc vi phạm các TCLĐQTCB không những không tăng cường lợi thế so sánh của quốc gia mà ngược lại làm giảm hiệu quả sản xuất, tăng chi phí và giảm năng suất lao động. Và do đó, việc thi hành các TCLĐQTCB sẽ thúc đẩy hiệu quả kinh tế (trong đó có xuất khẩu)(62). Thực tế cũng cho thấy, các quốc gia phát triển - nơi các TCLĐQTCB được thi hành tốt hơn cũng là các quốc gia đang thống trị nền thương mại toàn cầu (63). Theo thống kê, trong 10 quốc gia có sản lượng xuất khẩu lớn nhất thế giới trong giai đoạn 2007 - 2008, thì ngoại trừ Trung Quốc, các quốc gia còn lại đều là những nước phát triển (64).

Thông qua việc nghiên cứu tác động của tiêu chuẩn lao động đến xuất khẩu của 58 quốc gia không thuộc khối OECD, Baban Hasnat phát hiện ra rằng, chỉ có việc thực hiện các TCLĐQTCB về quyền tự do hiệp hội và thương lượng tập thể mới có tác động đến hoạt động xuất khẩu, còn việc phê chuẩn và thực hiện các TCLĐQTCB khác không có ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của quốc gia (65).

5. Kết luận

Có thể khẳng định rằng, các TCLĐQTCB là các quyền cơ bản của người lao động tại nơi làm việc, những quyền này gắn chặt với quyền con người được thừa nhận rộng rãi trên phạm vi toàn cầu. Tính đến thời điểm này, các nghiên cứu về TCLĐQTCB không những không tìm thấy tác động tiêu cực của việc thực hiện các TCLĐQTCB đến khả năng cạnh tranh của quốc gia mà ngược lại, những nghiên cứu này chứng minh rằng việc áp dụng, thực hiện và thi hành tốt các TCLĐQTCB góp phần ổn định kinh tế, xã hội, thúc đẩy khả năng cạnh tranh của quốc gia (66). Do vậy, việc áp dụng các TCLĐQTCB cần phải được xem xét là một trong các mục tiêu phát triển (về mặt xã hội) của quốc gia (67).

Xuất phát từ những phân tích nêu trên, chúng tôi cho rằng, Việt Nam cần phải:

- Thứ nhất, đánh giá toàn diện tác động của việc thực hiện các Công ước cơ bản của ILO mà Việt Nam đã ký kết. Việt Nam đã phê chuẩn 5/8 Công ước cơ bản của ILO, gồm: Công ước số 29 (1930); Công ước số 138 (1973); Công ước số 182 (1999); Công ước số 100 (1951); Công ước số 111 (1958).

- Thứ hai, áp dụng các quy định của 5 Công ước cơ bản nêu trên với tư cách là nguồn trực tiếp của pháp luật lao động Việt Nam. Việt Nam là thành viên của Công ước Viên năm 1969 về Luật Điều ước quốc tế (Vien Convention on Law of Treaties), việc này có nghĩa rằng Việt Nam theo trường phái nhất nguyên (Monism). Điều này cũng được khẳng định tại Điều 3 và Điều 6 Luật Ký kết, Gia nhập và Thực hiện Điều ước quốc tế năm 2005. Do đó, các TCLĐQTCB được quy định trong 5 Công ước nêu trên sẽ phải được áp dụng thay thế cho các quy định của pháp luật Việt Nam khi cùng điều chỉnh một vấn đề.

- Thứ ba, nghiên cứu khả năng phê chuẩn các Công ước cơ bản còn lại mà Việt Nam chưa phê chuẩn, gồm: Công ước số 87 (1948); Công ước số 98 (1949); Công ước số 105 (1957).

- Thứ tư, chuyển hóa các quy định của 3 Công ước cơ bản nêu trên vào trong Bộ luật Lao động (sửa đổi) sắp tới. Mặc dù có thể vì nhiều lý do khác nhau mà Việt Nam chưa phê chuẩn 3 Công ước này, nhưng với những phân tích về vai trò và ảnh hưởng của việc thực hiện các TCLĐQTCB, thì việc chuyển hóa những nguyên tắc cơ bản của 3 Công ước đó vào Bộ luật Lao động (sửa đổi) là hết sức cần thiết.

Tóm lại, việc thi hành các TCLĐQTCB là cơ sở để bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động cũng như của người sử dụng lao động, từ đó xây dựng hệ thống quan hệ lao động hài hòa, ổn định từ cấp cá nhân đến cấp doanh nghiệp và cấp quốc gia. Thực hiện các TCLĐQTCB làm tăng cường khả năng cạnh tranh của quốc gia trên cả phương diện thu hút FDI và xuất khẩu. Đồng thời, thực hiện các TCLĐQTCB, về lâu về dài, góp phần xây dựng lực lượng lao động chất lượng cao. Lực lượng lao động có chất lượng là tài sản, là nguồn vốn quý giá nhất của mỗi quốc gia trong quá trình toàn cầu hóa.

----------------------

Chú thích:

(1) Phạm Trọng Nghĩa. 2008, “Một số vấn đề cơ bản của Luật Lao động quốc tế”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 9 (125), trang 51-59.

(2) Xem www.ilo.org.

(3) Phạm Trọng Nghĩa, 2008, “Pháp luật lao động trong quá trình toàn cầu hóa”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 11 (135),trang 19-25.

(7) Drusilla, K.B., Alan, V.D. & Robert, M.S. 1996, “International Labour Standards and Trade: A Theoretical Analysis” in Harmonisation and Fair Trade: Prerequisites for Free Trade, eds. B. Jagdish & H. Robert, MIT Press, Cambridge, pp. 227-280.

(8) Drusilla, K.B., Alan, V.D. & Robert, M.S. 1998, “Trade and Labour Standards”, Open Economies Review, vol. 9, no. 2, pp. 171-194.

(9) Kimberly, A.E. & Richard, B.F. 2003, Can Labour Standards Improved under Globalization? Institute for International Economics, Washington at 73.

(10) Jan, M.W. 208, Realizing Core Labour Standards: The potential and limits of voluntary codes and social clauses: A review of the literature, GTZ, Eschborn at 16.

(11) Werner, S. 2005, Globalization and Social Progress: The Role and Impact of International Labor Standards, 2nd edn, Friedrich-Ebert-Stiftung, Bonn at 7.

(12) Gijsbert, L. 1989, “Minimum Labour Standards and International Trade: Would a Social Clause Work?”, International Labour Review, vol. 128, no. 4, pp. 433-448; Sandra, P. 2003, , Trade and Labour Standards: A Strategy for Developing Countries. Available: [2009, 1/15] and Luke, L.A. 2005, “Labour and the World Trade Organization: Towards a Reconstruction of the Linkage Discourse”, Deakin Law Review, vol. 10, no. 1, pp. 83-119.

(13) Union Network International 2006, , Core Labour Standards at the WTO - What have Trade Ministers Said?. Available: [2009, 2/16].

(14) Gijsbert, L. 1989, “Minimum Labour Standards and International Trade: Would a Social Clause Work?”, International Labour Review, vol. 128, no. 4, pp. 433-448.

(15) WTO 1996, , Singapore Ministerial Declaration. Available: [2008, 12/20]; OECD 2000, , International Trade and Core Labour Standards. OECD Policy Brief, October. Available: [2009, 1/15].

(16) Gijsbert, L. 1989, “Minimum Labour Standards and International Trade: Would a Social Clause Work?”, International Labour Review, vol. 128, no. 4, pp. 433-448.

(17) Fields, G. 1995, Trade and Labour Standards: A Review of the Issues, OECD, Paris at 13.

(18) United Nations 2008, , Copenhagen Declaration on Social Development. Part C: Commitments. Available: [2009, 1/15].

(19) OECD 1996, Trade, Employment and Labour Standards: A Study of Core Workers’ Rights and International Trade, OECD, Paris at 26.

(20) Hilary, K. 1998, “The ILO Declaration of 1998 on Fundamental Principles and rights: A challenge for the future”, International Labour Review, vol. 137, no. 2, pp. 223-227.

(21) Nội dung có tại www.ilo.org.

(22) Phần 2 của Tuyên bố về các Nguyên tắc cơ bản và các Quyền tại nơi làm việc.

(23) United Nations Global Compact 2009, , The Ten Principles [Homepage of United Nations], [Online]. Available: [2009, 2/10.

(24) ADB 2006, Core Labour Standards Hanbook, ADB, Manila at 10.

(25) Bank 2009, Core Labour Standards Toolkit [Homepage of World Bank], [Online]. Available: [2009, 2/15].

(26) Stephen, S.G. 2007, , International Labour Standards and International Trade. IMF Working paper No WP/97/37 [Homepage of Interntional Moneytary Fund], [Online]. Available: [2009, 2/10].

(27) OECD 2000, , International Trade and Core Labour Standards. OECD Policy Brief, October. Available: [2009, 1/15].

(28) Baban, H. 2002, “The impact of core labour standards on exports”, International Business Review, vol. 11, no. 5, pp. 563-575; Drusilla, K.B. 2000, International Trade and Core Labour Standards: A survey of the Recent Literature, OECD Publishing, Paris; Gudrun, B. & Joe, I. 2005, “Globalization and Core Labour Standards: Compliance problems with ILO Conventions 87 and 98. Comparing Australia and other English-Speaking Countries with EU Member States”, The International Journal of Comparative Labour Law and Industrial Relation, vol. 21, no. 3, pp. 405-444; Keith, E.M. & Will, J.M. 2001, “Core Labour Standards and Competitiveness: Implications for Global Trade Policy”, Review of International Economics, vol. 9, no. 2, pp. 317-328.

(29) Nội dung có tại, 2/10].

(30) Nội dung có tại, 2/10].

(31) Kimberly, A.E. & Richard, B.F. 2003, Can Labor Standards Improved under Globalization? Institute for International Economics, Washington at 11.

(32) Centre for Global Development 2007, , Labour Standards. Available: [2009, 2/16].

(33) Kimberly, A.E. & Richard, B.F. 2003, Can Labor Standards Improved under Globalization? Institute for International Economics, Washington at 13.

(34) Xem phân tích chi tiết tại phần 5.

(35) Jan, M.W. 208, Realizing Core Labour Standards: The potential and limits of voluntary codes and social clauses: A review of the literature, GTZ, Eschborn at 17.

(36) Xem Điều 19 Hiến chương ILO.

(37) Phần 2 của Tuyên bố về các Nguyên tắc cơ bản và các Quyền tại nơi làm việc.

(38) ADB 2006, Core Labour Standards Hanbook, ADB, Manila at 12.

(39) Part II and Part III of the Follow-up to the Declaration.

(40) Nội dung các Báo cáo này (English) có thể download tại địa chỉ http://www.ilo.org/declaration/Follow-up/Globalreports/lang—en/index.htmm.

(41) Robert J, Fanagan. (2006) Globalization and Labour Conditions: Working Conditions and Worker Rights in a Global Economy. Oxford: Oxford University Press.

(42) See Layna, M. & Saika, U. 2007, “Racing to the Bottom or Climbing to the Top? Economic Globalization and Collective Labor Rights”, Comparative Political Studies, vol. 40, pp. 923-948.

(43) Rodirk cited by Kucera, D. 2002, “Core Labour Standards and Foreign Direct Investment”, vol. 141, no. 1,2, pp. 31-70.

(44) Friedman, J., Gerlowski, D.A. & Silberman, J. 1992, “What Attract Foreign Multinationl Coporation? Evidence from Branch Plant Location in the United States”, Journal of Regional Science, vol. 32, no. 4, pp. 403-418.

(45) Matthias, B. 2002, “Comparative Advantage, Trade and Labour Standards”, Economic Bulletin, vol. 6, no. 2, pp. 1-8.

(46) Flanagan, R. J. (2003). Labor Standards and International Competitive Advantage. Mimeo.

(47) Werner, S. 2005, Globalization and Social Progress: The Role and Impact of International Labor Standards, 2nd edn, Friedrich-Ebert-Stiftung, Bonn at 13; Ritash, S. 2005, , The impact of core labour standards on Foreign Direct Investment in East Asia. Available: [2009, 1/15].

(48) Nicholas, B. 1999, "The Location of Foreign Direct Investment: An Empirical Analysis", Applied Economics, vol. 31, no. 1, pp. 65-76.

(49) Drusilla, K.B. 2000, International Trade and Core Labour Standards: A survey of the Recent Literature, OECD Publishing, Paris;

(50) Klasen cited by Kucera, D. 2002, Effects of Labor Standards on Labor Costs and FDI Flows. Available: [2009, 2/16].

(51) Kucera, D. 2002, “Core Labour Standards and Foreign Direct Investment”, vol. 141, no. 1,2, pp. 31-70.

(52) UNCTAD 2006, World Investment Report 2006: FDI from Developing and Transition Economies: Implications for Development, UNTAD, Geneva at 3 -4.

(53) Jai, S.M. 1997, “Core Labour Standards and Export Performance in Developing Countries”, World Economy, vol. 20, no. 6, pp. 773-785;

(54) ILO 2002, A future without child labour. Global report under the follow-up to the ILO Declaration on Fundamental Principles and Rights at Work. Report of the Director-General, 2002, ILO, Geneva at xi, 21; ILO 2001, Stopping forced labour : global report under the follow-up to the ILO Declaration on fundamental principles and rights at work. Report of the Director-General, 2001, ILO, Geneva.

(55) Bachma, S.L. 2000, “A new economics of child labour: Searching for answers behind the headlines”, Journal of International Affairs, vol. 53, no. 2, pp. 545-572; Drusilla, K.B., Alan, V.D. & Robert, M.S. 2003, “Child Labour: Theory, Evidence, and Policy” in International Labor Standards: History, Theory, and Policy Options, eds. B. Kaushik, H. Henrik, R. Lisa & S. Judith, Blackwell publishing Ltd, Oxford, pp. 195-247.

(56) Theo điều tra của ILO, thì trong năm 2004 có khoảng độ 317 triệu trẻ em từ 5 đến 17 tuổi tham gia hoạt động kinh tế, trong đó 218 triệu trường hợp được coi là lao động trẻ em, trong số này có 126 triệu trẻ em tham gia vào các công việc nặng nhọc, độc hại. Cũng theo thống kê của ILO, trong năm 2005, có 12, 3 triệu người là nạn nhân của lao động cưỡng bức, trong đó 9, 8 triệu người là bị cưỡng bức bởi các tổ chức tư nhân, 2, 5 triệu người bị cưỡng lao động bởi nhà nước.

(57) Kimberly, A.E. & Richard, B.F. 2003, Can Labor Standards Improved under Globalization? Institute for International Economics, Washington at 17.

(58) Cees, v.B. 1998, “Labour Standards and Trade Flows of OECD Countries”, World Economy, vol. 21, no. 1, pp. 57-73.

(59) OECD 1996, Trade, Employment and Labour Standards: A Study of Core Workers’ Rights and International Trade, OECD, Paris.

(60) Flanagan, R. J. (2003). Labor Standards and International Competitive Advantage. Mimeo

(61) OECD 1996, Trade, Employment and Labour Standards: A Study of Core Workers’ Rights and International Trade, OECD, Paris.

(62) Will, J.M. & Keith, E.M. 2001, “Core Labor Standards and Competitiveness: Implications for Global Trade Policy”, Review of International Economics, vol. 9, no. 2, pp. 317-328.

(63) Will, J.M. & Keith, E.M. 2001, “Core Labor Standards and Competitiveness: Implications for Global Trade Policy”, Review of International Economics, vol. 9, no. 2, pp. 317-328.

(64) Xem List of Countries by Export at http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_countries_by_exports.

(65) Baban, H. 2002, “The impact of core labour standards on exports”, International Business Review, vol. 11, no. 5, pp. 563-575.

(66) Jan, M.W. 2008, Realizing Core Labor Standards: The potential and limits of voluntary codes and social clauses: A review of the literature, GTZ, Eschborn at 22.

(67) Remi, B. 2004, , Core labour Standards and Economic growth. Available: [2009, 1/15].

SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐIỆN TỬ

Trích dẫn từ: http://www.nclp.org.vn/kinh_nghiem_quoc_te/tac-111ong-cua-viec-thuc-hien-cac-tieu-chuan-lao-111ong-quoc-te-co-ban-111en-kha-nang-canh-tranh-cua-quoc-gia

Thứ Bảy, 18 tháng 10, 2008

CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TRONG THƯƠNG MẠI QUÓC TẾ

THS. NGUYỄN TIẾN VINH - Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội

I. Luật lệ của WTO về bán phá giá và biện pháp chống phá giá

Hiện tượng bán phá giá có nguồn gốc khá sớm trong thực tiễn thương mại quốc tế. Mặc dù còn có những quan điểm khác nhau, song pháp luật các nước đều coi đây là một trong những hành vi thương mại không lành mạnh. Một số nước đã có những đạo luật về chống bán phá giá trong thương mại quốc tế từ rất sớm [1]. Trên bình diện quan hệ thương mại đa biên, Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) năm 1947 là văn kiện pháp lý đầu tiên quy định về vấn đề này (Điều VI). Năm 1967, các Bên ký kết của GATT đã thỏa thuận “Hiệp định về thực hiện điều VI của GATT”, thường được gọi là Bộ luật chống bán phá giá. Trong vòng đàm phán Tokyo, Hiệp định này được sửa đổi, bổ sung vào năm 1979.

Cuối cùng, với kết quả của Vòng đàm phán Uruguay, vấn đề bán phá giá và biện pháp chống bán phá giá được điều chỉnh bởi “Hiệp định về thực hiện điều VI của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại năm 1994” (sau đây gọi tắt là Hiệp định ADP). Là một trong những hiệp định thương mại đa biên của WTO, Hiệp định này được xếp trong Phụ lục I A của Hiệp định Marrakech thành lập Tổ chức Thương mại thế giới, có hiệu lực bắt buộc đối với tất cả các nước thành viên của WTO.

Các quy định hiện hành của WTO về bán phá giá và chống bán phá giá có thể được nhìn nhận qua các vấn đề: Các hành vi bán phá giá bị lên án, các biện pháp chống bán phá giá có thể được áp dụng và thủ tục áp dụng các biện pháp này.

1. Bán phá giá hàng xuất khẩu trong thương mại quốc tế

Khái quát nhất, một sản phẩm được coi là bán phá giá khi giá xuất khẩu của sản phẩm đó thấp hơn giá thông thường của sản phẩm tương tự bán trong nước. Về bản chất, bán phá giá trong thương mại quốc tế là hành vi phân biệt giá cả: đối với cùng một sản phẩm hoặc sản phẩm tương tự, nhưng giá xuất khẩu lại thấp hơn giá tiêu thụ nội địa. Khác với hiện tượng trợ cấp nhà nước, bán phá giá là hành vi có tính chất doanh nghiệp. Bản thân GATT cũng như các hiệp định của WTO sau này, bao gồm cả Hiệp định ADP là những điều ước quốc tế giữa các quốc gia, do vậy không điều chỉnh trực tiếp các hành vi thương mại tư nhân này. Tuy nhiên, xuất phát từ ý tưởng cho rằng bán phá giá là một trong những hành vi thương mại không công bằng, bóp méo hoạt động thương mại bình thường, GATT cũng như WTO đều cho phép các quốc gia áp dụng những biện pháp mang tính “phòng vệ” để ngăn chặn và hạn chế hậu quả hiện tượng này, nhằm bảo vệ nền sản xuất nội địa. Tuy nhiên, dưới góc độ kinh tế, việc bán phá giá không phải không đem lại những lợi ích nhất định: dưới góc độ của nước xuất khẩu, bán phá giá tạo điều kiện cho nhà sản xuất có điều kiện phát huy tối đa năng lực sản xuất, khả năng tăng lợi nhuận và thâm nhập thị trường mới; dưới góc độ của nước nhập khẩu, người tiêu dùng có điều kiện hưởng lợi về giá cả. Có lẽ đó chính là một trong những lý do mà không phải bất cứ hành vi bán phá giá nào cũng bị lên án, theo quy định của cả GATT trước đây và WTO hiện nay [3].

Để có thể áp dụng biện pháp chống bán phá giá, nước nhập khẩu phải chứng minh được: sự tồn tại của hành vi bán phá giá hàng nhập khẩu vào thị trường của mình; hành vi bán phá giá đó gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại vật chất cho ngành công nghiệp trong nước.

Điều VI. 1 của GATT coi bán phá giá là việc “sản phẩm của một nước được đưa vào kinh doanh trên thị trường của một nước khác với giá thấp hơn giá trị thông thường của sản phẩm”[2]. Cụ thể hơn, điều 2.1 của Hiệp định ADP định nghĩa: “một sản phẩm bị coi là bán phá giá... nếu như giá xuất khẩu của sản phẩm được xuất khẩu từ một nước này sang một nước khác thấp hơn mức giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được tiêu dùng tại nước xuất khẩu theo các điều kiện thương mại thông thường”.

Như vậy, cốt lõi của việc xác định bán phá giá là sự so sánh biên độ chênh lệch giữa giá xuất khẩu với giá thông thường của sản phẩm tại nước xuất khẩu. Việc tiến hành so sánh giữa giá xuất khẩu và giá thông thường phải được tiến hành đối với cùng loại sản phẩm hoặc đối với sản phẩm tương tự (like product trong tiếng Anh và produit similaire trong tiếng Pháp). Theo điều 2.6 Hiệp định ADP, sản phẩm tương tự trong trường hợp bán phá giá được hiểu theo nghĩa rất hẹp, là sản phẩm giống hệt, tức là có tất cả các mặt giống với sản phẩm đang xem xét, hoặc nếu không có sản phẩm nào như vậy thì là sản phẩm mặc dù không giống ở mọi mặt nhưng có những đặc tính rất giống (closely resembling trong tiếng Anh và ressemblant étroitement trong tiếng Pháp) với sản phẩm đang xem xét[3].

Trong trường hợp việc bán sản phẩm trong thị trường nội địa của nước xuất khẩu không diễn ra theo các điều kiện thương mại thông thường (như việc bán hàng thấp hơn giá thành sản xuất do được trợ cấp bởi chính phủ) hoặc sản phẩm đó không được bán tại nước xuất khẩu hay được bán với số lượng không đáng kể, biên độ chênh lệch giá có thể được xác định bằng việc so sánh giá xuất khẩu với giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự khi xuất khẩu sang nước thứ ba, hoặc với giá cấu thành. Giá cấu thành được tính trên cơ sở giá thành sản xuất tại nước xuất khẩu cộng thêm một khoản hợp lý cho chi phí quản lý, bán hàng và lợi nhuận (điều 2.2 Hiệp định ADP).

Sau khi tiến hành so sánh, nếu giá xuất khẩu thấp hơn giá thông thường tại nước xuất khẩu (hoặc thấp hơn giá xuất khẩu sang nước thứ ba, hoặc thấp hơn giá cấu thành trong trường hợp không xác định được giá thông thường của sản phẩm tương tự tại thị trường nội địa của nước xuất khẩu) thì có thể khẳng định sự tồn tại của việc bán phá giá đối với sản phẩm được xem xét. Tuy nhiên, để có thể áp dụng biện pháp chống phá giá đối với sản phẩm này, nước nhập khẩu còn phải chứng minh rằng việc bán phá giá đó gây tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại cho ngành sản xuất sản phẩm tương tự trong nước.

Khái niệm tổn hại được hiểu là thiệt hại vật chất đối với ngành sản xuất trong nước hoặc ảnh hưởng vật chất làm chậm quá trình hình thành một ngành sản xuất như vậy (điều 3 Hiệp định ADP). Điều 3 của Hiệp định ADP còn quy định rằng việc xác định hàng nhập khẩu bán phá giá có đang làm tổn hại đến ngành sản xuất nội địa hay không phải được thực hiện trên cơ sở mọi “yếu tố kinh tế liên quan tác động đến tình trạng của ngành sản xuất”. Những yếu tố đó gồm: sự giảm sút thực tế và tiềm tàng về sản lượng, doanh số, thị phần, lợi nhuận, năng xuất, tỷ xuất đầu tư hoặc sử dụng công xuất; sự tác động lên giá nội địa; tác động thực tế và tiềm tàng về chu chuyển tiền, tồn kho; việc làm; tiền lương; tăng trưởng và năng lực huy động vốn đầu tư [7, tr.196]. Mặt khác, những thiệt hại vật chất cho ngành sản xuất trong nước phải là hệ quả trực tiếp của việc bán phá giá. Nói cách khác, phải chứng minh được mối quan hệ nhân quả giữa hành vi bán phá giá và những thiệt hại vật chất mà ngành sản xuất sản phẩm tương tự trong nước phải gánh chịu. Khái niệm ngành sản xuất trong nướcdùng để chỉ tập hợp chung các nhà sản xuất trong nước sản xuất các sản phẩm tương tự hoặc để chỉ những nhà sản xuất có tổng sản phẩm chiếm phần lớn tổng sản xuất trong nước của sản phẩm đó, trừ một số ngoại lệ cụ thể (điều 4 Hiệp định ADP).

2. Biện pháp chống bán phá giá và thủ tục áp dụng biện pháp chống bán phá giá trong thương mại quốc tế

Xuất phát từ quan điểm cho rằng hành vi bán phá giá, ở một mức độ nghiêm trọng nhất định là hành vi thương mại không công bằng, luật lệ của GATT trước đây và WTO hiện nay đều cho phép các quốc gia áp dụng biện pháp có tính trả đũa, tự vệ thương mại. Trong các biện pháp hạn chế thương mại như áp dụng hạn ngạch, hạn chế số lượng, tăng thuế, các biện pháp hạn chế có tính kỹ thuật, phi thuế quan khác, để chống lại hành vi bán phá giá, các quốc gia chỉ có quyền áp dụng biện pháp tăng thuế nhập khẩu. Nói cách khác, quốc gia bị thiệt hại chỉ có thể áp dụng thuế bổ sung (thuế chống bán phá giá) đối với hàng hóa nhập khẩu bị xác định là bán phá giá. Các biện pháp hạn chế số lượng hay các biện pháp hạn chế phi thuế quan khác không được coi là hợp pháp. Quyền áp dụng thuế bán phá giá của quốc gia bị thiệt hại thực chất là quyền có tính ngoại lệ đối với hai nguyên tắc trong thương mại đa biên: Thứ nhất, đó là ngoại lệ đối với nguyên tắc Đối xử tối huệ quốc (MFN). Thuế chống bán phá giá chỉ áp dụng đối với hàng hóa cụ thể của quốc gia xuất khẩu cụ thể, đã bị xác định là đối tượng của hành vi bán phá giá;
Thứ hai, áp dụng thuế bán phá giá cũng là ngoại lệ đối với nguyên tắc tôn trọng các cam kết về cắt giảm thuế. Quốc gia bị thiệt hại không có nghĩa vụ tôn trọng giữ nguyên mức thuế đã cam kết đối với các hàng hóa nhập khẩu là đối tượng của hành vi bán phá giá bị cấm.[4]

Việc xác định mức thuế chống bán phá giá phải dựa trên trên biên độ phá giá của sản phẩm có liên quan. Biên độ phá giá chính là sự chênh lệch về giá giữa giá xuất khẩu đang xem xét với giá thông thường của sản phẩm tại thị trường nội địa, hoặc giá xuất khẩu sang nước thứ ba, hoặc giá cấu thành của sản phẩm. Về bản chất, thuế chống bán phá giá là khoản thuế bổ sung, đánh vào hàng nhập khẩu nhằm triệt tiêu tác dụng hay ngăn ngừa việc bán phá giá đối với sản phẩm đó (điều VI.2 của GATT). Mục đích cuối cùng của thuế chống bán phá giá là tạo dựng lại thế cạnh tranh cân bằng giữa sản phẩm trong nước và sản phẩm nhập khẩu, bảo vệ thị trường nội địa chống lại các hành vi cạnh tranh quốc tế không lành mạnh. Cũng chính vì mục đích này mà việc áp dụng mức thuế chống bán phá giá được yêu cầu là không vượt quá biên độ bán phá giá, nhằm tránh tình trạng lạm dụng thuế chống bán phá giá làm công cụ bảo hộ bất hợp pháp thị trường nội địa.

Hiệp định GATT 1947 không có các quy định về thủ tục áp dụng biện pháp chống bán phá giá. Hiệp định mặc nhiên thừa nhận quyền tự do của các quốc gia trong việc xây dựng các thủ tục để xác định hiện tượng bán phá giá và áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu vào nước mình. Tình trạng này là nguyên nhân chủ yếu để nhiều nước lợi dụng áp dụng pháp luật chống bán phá giá như là công cụ thực hiện chính sách bảo hộ thái quá thị trường nội địa. Hiệp định ADP đã tiến một bước dài so với GATT 1947 về điểm này. Bên cạnh việc đưa ra những tiêu chí cụ thể hơn để xác định hành vi bán phá giá, có thể nói Hiệp định ADP đã có bước tiến dài trong việc hài hòa hóa hoạt động tố tụng của các quốc gia từ việc điều tra xác định bán phá giá, đến việc áp dụng và kiểm soát các biện pháp chống bán phá giá [3, tr.634].

Để có thể áp dụng biện pháp chống bán phá giá, Hiệp định ADP yêu cầu nước nhập khẩu hàng hóa phải tiến hành điều tra. Hoạt động điều tra này nhằm mục đích xác định “ sự tồn tại việc bán phá giá không cũng như xác định mức độ và hậu quả của trường hợp bị nghi ngờ là bán phá giá” (điều 5.1 Hiệp định ADP). Cuộc điều tra này được tiến hành trên cơ sở đơn yêu cầu của ngành sản xuất trong nước hoặc của người đại diện của ngành sản xuất trong nước chịu thiệt hại do hành vi bán phá giá gây ra.[5] Đơn yêu cầu phải đưa ra các bằng chứng về việc bán phá giá, sự tổn hại do hành vi đó gây ra, mối quan hệ nhân quả giữa việc bán phá giá hàng nhập khẩu và thiệt hại mà ngành sản xuất trong nước phải gánh chịu (điều 5.2 Hiệp định ADP) [7, tr.198-199]. Ngoài ra, để đảm bảo việc điều tra và áp dụng biện pháp chống bán phá giá được ủng hộ bởi số lớn các nhà sản xuất nội địa, Hiệp định ADP còn đề ra hai tiêu chí bổ sung khác: Thứ nhất, đơn yêu cầu chỉ được coi là đại diện cho ngành sản xuất trong nước nếu như được ủng hộ bởi các nhà sản xuất chiếm tối thiểu 50% tổng sản lượng của sản phẩm tương tự làm bởi các nhà sản xuất đã bày tỏ ý kiến phản đối hoặc tán thành đơn yêu cầu đó. Thứ hai, cuộc điều tra chỉ được tiến hành khi các nhà sản xuất ủng hộ đơn yêu cầu chiếm ít nhất 12% tổng sản lượng của sản phẩm tương tự được ngành sản xuất nội địa làm ra (điều 5.4 Hiệp định ADP). Quá trình điều tra bán phá giá cũng phải tuân thủ những điều kiện cụ thể, được quy định trong Hiệp định ADP: về thời hạn, một cuộc điều tra không kéo dài hơn 12 tháng. Trong trường hợp đặc biệt, thời hạn này cũng không thể vượt quá 18 tháng; Hoạt động điều tra phải đảm bảo quyền được trình bày ý kiến, quyền cung cấp chứng cứ của các bên đương sự; Cơ quan tiến hành điều tra có thể tham khảo ý kiến của các bên có liên quan, bao gồm cả thông tin và ý kiến từ phía người tiêu dùng.

Trong quá trình điều tra, nếu đã có kết luận ban đầu về việc bán phá giá và thiệt hại do việc bán phá giá mang lại, nước nhập khẩu có thể áp dụng các biện pháp tạm thời. Các biện pháp tạm thời bao gồm áp đặt thuế chống phá giá tạm thời hoặc yêu cầu đảm bảo bằng tiền mặt tương đương với mức thuế chống bán phá giá dự tính. Các biện pháp này nhằm mục đích ngăn chặn các tổn hại diễn ra trong quá trình điều tra. Các biện pháp tạm thời chỉ được áp dụng sớm nhất là 60 ngày kể từ khi cuộc điều tra chống bán phá giá bắt đầu và tồn tại không quá 4 tháng. Trong trường hợp đặc biệt, biện pháp tạm thời có thể được kéo dài đến 9 tháng (điều 7 Hiệp định ADP).

Hoạt động điều tra có thể bị đình chỉ hoặc chấm dứt mà không cần áp dụng bất cứ biện pháp tạm thời hay thuế chống phá giá nếu các nhà xuất khẩu đưa ra cam kết về giá. Đây là trường hợp nhà xuất khẩu cam kết tăng giá hàng xuất khẩu, xóa đi khoản chênh lệch về giá tương đương với biên độ phá giá được sơ bộ xác định. Việc đưa ra cam kết về giá của nhà xuất khẩu chỉ được chấp nhận khi cơ quan điều tra thấy rằng thiệt hại đối với ngành sản xuất trong nước đã được loại bỏ và bản thân hành động cam kết về giá cũng không đương nhiên chấm dứt hoạt động điều tra.

Theo quy định của Hiệp định ADP, cũng như thực tiễn của tất cả các nước, hoạt động điều tra, áp dụng các biện pháp tạm thời và thuế chống bán phá giá thuộc thẩm quyền của cơ quan hành pháp. Để đảm bảo tính công bằng của các hoạt động này, bên cạnh việc quy định vấn đề chống bán phá giá có thể trở thành đối tượng của tranh chấp thương mại theo thủ tục của WTO nói chung, Hiệp định ADP còn quy định tại điều 13 về rà soát tư pháp. Theo quy định của Điều này, các quốc gia thành viên có nghĩa vụ đảm bảo rằng các hoạt động về đánh giá hành vi bán phá giá, áp dụng các biện pháp chống phá giá phải được kiểm soát bởi các cơ quan tư pháp, hoạt động độc lập với các cơ quan đã đưa ra quyết định trong lĩnh vực chống bán phá giá. Bên cạnh đó, việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá cũng được đảm bảo bởi nhiều các quy định thủ tục khác: theo quy định tại Điều 10 của Hiệp định ADP, thuế chống bán phá giá không có giá trị hồi tố; thời hạn áp dụng thuế chống bán phá giá không vượt quá 5 năm, trừ trường hợp mở cuộc điều tra mới (điều 11.3 Hiệp định ADP).

II. Một số liên hệ đối với Việt Nam

Việc mở cửa nền kinh tế, tham gia ngày càng tích cực vào thị trường khu vực và quốc tế đang đặt ra cho nền kinh tế Việt Nam nhiều vấn đề của thương mại quốc tế, trong đó có vấn đề bán phá giá. Việt Nam vừa có nguy cơ là đối tượng của hành vi bán phá giá của các nước xuất khẩu khác, đồng thời cũng có nguy cơ bị áp đặt các biện pháp chống bán phá giá đối với hàng xuất khẩu ra nước ngoài.

Một mặt, về việc thị trường nội địa Việt Nam bị thiệt hại do hành vi bán phá giá của hàng nhập khẩu nước ngoài: với đặc điểm là nền kinh tế chuyển đổi, đang trong quá trình hoàn thiện các thiết chế của kinh tế thị trường, các doanh nghiệp sản xuất của Việt Nam còn rất yếu kém trong hoạt động cạnh tranh, đặc biệt cạnh tranh trong thương mại quốc tế. Tình trạng này dẫn đến việc hàng hóa nước ngoài có thể dễ dàng chiếm lĩnh thị trường Việt Nam thông qua cơ chế giá. Hiện tượng bán phá giá của hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam chủ yếu ở lĩnh vực hàng công nghiệp, đặc biệt các mặt hàng điện tử dân dụng; cơ khí dân dụng; đồ mỹ phẩm; thuốc chữa bệnh; nước giải khát; đồ may mặc...[8, tr. 95-132]. Nguy cơ này thực sự đến gần khi Việt Nam sẽ tiếp tục cắt giảm đối thuế đối với gần 700 mặt hàng nhập khẩu xuống còn từ 0 đến 5% trong nửa cuối năm 2003 này, nhằm thực hiện các cam kết trong khuôn khổ AFTA giữa các nước ASEAN [5]. Đặc biệt, do cơ cấu ngành hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam và các nước ASEAN tương đối giống nhau, trong khi đó nền kinh tế của các nước này lại có rất nhiều lợi thế so với nền kinh tế Việt Nam [1, tr.176-178], do vậy nguy thị trường Việt Nam phải chịu những thiệt hại do cạnh tranh không lành mạnh trong cơ chế giá là rất lớn.

Mặt khác, với những ưu thế về lực lượng lao động trẻ, đông về số lượng, rẻ về giá thành, trong bối cảnh thực hiện chính sách tăng cường xuất khẩu, hàng hóa Việt Nam đang và sẽ là đối tượng chịu sự áp đặt các biện pháp chống bán phá giá của nhiều thị trường khác. Trong bối cảnh các rào cản thương mại có tính chất số lượng, thuế quan ngày càng bị ngăn cấm, cắt giảm, các nước có xu hướng tăng cường bảo hộ thị trường nội địa của mình thông qua các biện pháp kỹ thuật, phi thuế quan. Một trong những biện pháp đó là hiện tượng lạm dụng thuế chống bán phá giá để bảo hộ sản phẩm trong nước. Theo số liệu thống kê, những nước đạt kỷ lục về sử dụng biện pháp thuế chống phá giá lại chính là những thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam như Cộng đồng châu Âu, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Úc, Ca-na-đa [7,tr.203], [4, tr.353-369]. Gần đây nhất, nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đã không ngừng bị áp dụng các thủ tục và biện pháp chống phá giá tại thị trường EU, Mỹ như mặt hàng cá da trơn đông lạnh, tôm đông lạnh, bật lửa gaz, giầy dép...[6].

Đứng trước hiện trạng và những nguy cơ trên, liên quan đến hoạt động chống bán phá giá, quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam vừa phải đảm bảo ngăn chặn và xử lý các hành vi bán phá giá của hàng nhập khẩu nước ngoài nhằm bảo vệ thị trường nội địa, vừa đấu tranh chống lại sự lạm dụng các biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hóa của Việt Nam nhằm giữa vững và tăng cường hoạt động xuất khẩu sang thị trường nước ngoài. Để đáp ứng được hai yêu cầu song hành đó, bên cạnh việc tìm kiếm các biện pháp tăng cường sức cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế nói chung, thì việc xây dựng và hoàn thiện chính sách và pháp luật về chống bán phá giá nói riêng và pháp luật về hội nhập kinh tế quốc tế nói chung là mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài đối với Việt Nam. Có thể đưa ra một số nhận xét, kiến nghị ban đầu như sau:

Thứ nhất, chúng ta cần sớm ban hành văn bản ở cấp độ luật về vấn đề chống bán phá giá trong thương mại quốc tế. Cho đến hiện nay, Việt Nam còn rất thiếu các văn bản pháp luật quy định về các biện pháp có tính tự vệ thương mại, chống lại các hành vi thương mại thiếu lành mạnh, không công bằng nhằm bảo vệ thị trường nội địa. Gần đây nhất, UBTVQH đã ban hành Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam [10]. Pháp lệnh này quy định về các biện pháp tự vệ và thủ tục áp dụng các biện pháp đó trong trường hợp nhập khẩu hàng hóa quá mức vào Việt Nam gây thiệt hại nghiêm trọng cho sản xuất trong nước (điều 1). Như vậy, đối tượng áp dụng của Pháp lệnh không phải là tình trạng nhập khẩu hàng hóa quá mức, gây thiệt hại cho sản xuất trong nước do hành vi cạnh tranh không công bằng về giá của nhà xuất khẩu nước ngoài (hiện tượng bán phá giá), cũng không phải là hiện tượng cạnh tranh không công bằng của hàng hóa nước ngoài do được chính phủ nước xuất khẩu trợ giá (hiện tượng trợ cấp chính phủ).

Về vấn đề bán phá giá, ngày 26/4/2001 UBTVQH đã thông qua Pháp lệnh Giá, tại khoản 3 điều 4 có định nghĩa: “Bán phá giá là hành vi bán hàng hóa, dịch vụ với giá quá thấp so với giá thông thường trên thị trường Việt Nam để chiếm lĩnh thị trường, hạn chế cạnh tranh đúng pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh và lợi ích của Nhà nước”[11]. Pháp lệnh cũng đưa ra các thủ tục, biện pháp điều tra và xử lý chống bán phá giá. Tuy nhiên, Pháp lệnh này chỉ có thể điều chỉnh các hành vi bán phá giá của các tổ chức cá nhân nước ngoài, khi họ “hoạt động sản xuất kinh doanh tại Việt Nam” (khoản 2 điều 1 Pháp lệnh Giá). Do vậy, Pháp lệnh không điều chỉnh được các hành vi bán phá giá đối với hàng nhập khẩu nước ngoài vào Việt Nam. Khoản 2 Điều 9 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu quy định áp dụng thuế bổ sung đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam “với giá bán quá thấp so với giá thông thường do được bán phá giá”.

Như vậy, cho đến nay, chúng ta vẫn chưa có một văn bản pháp lý quy định cụ thể về vấn đề điều tra chống bán phá giá và biện pháp chống bán phá giá hàng nước ngoài vào Việt Nam. Trong thời gian gần, việc ban hành một Pháp lệnh về vấn đề này là rất cấp bách. Đáp ứng các yêu cầu về hội nhập kinh tế quốc tế, các quy định của pháp lệnh này có mục đích cao nhất là bảo vệ thị trường nội địa, nhưng cũng cần tính tới các chuẩn mực và thông lệ của WTO, mà cụ thể là của Hiệp định ADP. Đồng thời, việc ban hành pháp lệnh về chống bán phá giá hàng nhập khẩu cũng cần tính đến sự đồng bộ, thống nhất với các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam nói chung như các quy định về thuế, về quản lý giá, cạnh tranh, về tự vệ trong thương mại và chống trợ cấp đối với hàng nhập khẩu...

Thứ hai, để chống lại hiện tượng lạm dụng thủ tục chống bán phá giá nhằm hạn chế hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam, nhiều chính sách, biện pháp đồng bộ cần phải được tiến hành: một mặt, cần đẩy mạnh quá trình gia nhập WTO của Việt Nam. Việc gia nhập này sẽ mang đến những thách thức, khó khăn lớn, tuy nhiên cũng đem lại những cơ hội kinh tế và pháp lý có ý nghĩa đặc biệt quan trọng [2]. Liên quan đến việc hạn chế sự lạm dụng thủ tục chống bán phá giá đối với hàng xuất khẩu của nước ta, tham gia WTO sẽ đem lại những lợi thế như: các nước nhập khẩu khi xem xét vấn đề bán phá giá đối với hàng xuất khẩu từ Việt Nam sẽ phải tôn trọng những quy định của WTO về vấn đề này; có thể sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO để chống lại những nước nhập khẩu sử dụng thuế chống bán phá giá nhằm đối xử phân biệt hoặc hạn chế hàng xuất khẩu từ Việt Nam; tham gia WTO sẽ đương nhiên đem lại cho Việt Nam quy chế “nền kinh tế thị trường”, hạn chế được sự bất lợi cho hàng xuất khẩu của Việt Nam khi bị nước nhập khẩu xem xét vấn đề bán phá giá [12]. Mặt khác, khi tham gia ký kết các hiệp định thương mại song phương, Việt Nam cũng cần có những thỏa thuận thích đáng về các vấn đề tự vệ thương mại, trợ cấp chính phủ và bán phá giá, trên cơ sở các chuẩn mực thương mại quốc tế, tránh tình trạng để bên ký kết nước ngoài tự do đơn phương áp dụng pháp luật của họ. Hơn nữa, trong pháp luật về chống bán phá giá của Việt Nam cũng cần quy định nguyên tắc có đi có lại và nguyên tắc áp dụng trả đũa đối với những nước đối xử bất bình đẳng và phân biệt đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.[7]

Thứ ba, để đồng thời chống lại hiện tượng bán phá giá tại thị trường Việt Nam và áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam tại thị trường nước ngoài thì công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và tổ chức các nhà sản xuất, xuất khẩu của Việt Nam có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Xuất phát từ hiện trạng kinh nghiệm và vốn kiến thức kinh doanh quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế, việc tuyên truyền pháp luật Việt Nam về thương mại quốc tế, về các quy định và thực tiễn của các thiết chế kinh tế thương mại quốc tế, cũng như các quy định pháp luật nội địa của các thị trường nước ngoài quan trọng sẽ giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam có thêm kiến thức để tự bảo vệ mình. Đồng thời, trong hoạt động chống bán phá giá, việc tổ chức các nhà sản xuất, xuất khẩu thành các tổ chức, hiệp hội nghề nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng. Sự liên kết, thống nhất giữa các nhà sản xuất, xuất khẩu theo ngành, nghề sẽ tạo thành tiếng nói chung có giá trị pháp lý để bảo vệ quyền lợi của chính họ.

Kết luận

Là một trong những biện pháp có tính chất tự vệ trong thương mại quốc tế, việc áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu của các quốc gia được GATT trước đây và WTO hiện nay thừa nhận. Mục đích cao nhất của thuế chống bán phá giá là nhằm hạn chế và loại bỏ những thiệt hại do hành vi bán phá giá của hàng hóa nước ngoài, nhằm giữ vững thế cân bằng trong cạnh tranh giữa hàng nhập khẩu và hàng sản xuất nội địa. Tuy nhiên, trên thực tế cũng có những trường hợp nước nhập khẩu lạm dụng thuế chống bán phá giá để bảo hộ ngành sản xuất trong nước. Chính vì vậy, Hiệp định ADP của WTO đã có những quy định chi tiết hóa các điều kiện, thủ tục về điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá trong thương mại quốc tế.

Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, với đặc điểm là nền kinh tế chuyển đổi, đang phát triển, Việt Nam đồng thời phải đối mặt với tình trạng bán phá giá của hàng hóa nước ngoài tại thị trường nội địa và tình trạng hàng hóa xuất khẩu bị áp dụng các biện pháp bảo hộ tại thị trường nước ngoài, trong đó có biện pháp lạm dụng thuế bán phá giá. Trong bối cảnh đó, nhu cầu cấp bách đặt ra là Việt Nam sớm xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tự vệ thương mại nói chung và pháp luật về chống bán phá giá nói riêng, trên cơ sở hài hòa hóa với các quy định và thực tiễn của thương mại quốc tế.

SOURCE: CHONGBANPHAGIA.VN

Trích dẫn từ: http://chongbanphagia.vn/beta/binhluan/20070301/chong-ban-pha-gia-trong-thuong-mai-quoc-te

MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ XÁC ĐỊNH NỘI DUNG MÔN HỌC TƯ PHÁP QUỐC TẾ TẠI VIỆT NAM

THS. LÊ THỊ NAM GIANG -  ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh

1. Đặt vấn đề

Tư pháp quốc tế hay còn gọi là Luật xung đột[1] giữ một vai trò hết sức quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, từ đó thúc đẩy quá trình hợp tác quốc tế. Tại Việt Nam hiện nay, Tư pháp quốc tế được hiểu với tư cách là một ngành luật độc lập và là một bộ môn khoa học pháp lý độc lập.[2] Theo quan điểm của Việt Nam, Tư pháp quốc tế có đối tượng điều chỉnh là các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng (quan hệ mang bản chất dân sự) có yếu tố nước ngoài.[3] Thực ra, chúng ta đã ủng hộ quan điểm được thừa nhận rộng rãi và được thể hiện trong rất nhiều giáo trình Tư pháp quốc tế tại Liên bang Nga (và trước đây là Liên xô)[4]. Liên quan chặt chẽ tới việc xác định đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế là việc xác định nội dung nghiên cứu của Tư pháp quốc tế. Tuy nhiên, đây là vấn đề được tranh luận nhiều nhất trong lịch sử hình thành và phát triển của Tư pháp quốc tế với rất nhiều quan điểm khác nhau mà cho đến giờ, khoa học Tư pháp quốc tế ở các nước vẫn chưa đưa ra được quan điểm thống nhất.

Bài viết này đề cập trước hết đến phạm vi điều chỉnh của Tư pháp quốc tế của một số nước trên thế giới và của Việt Nam, tiếp đó bàn luận về việc xác định nội dung giảng dạy môn học Tư pháp quốc tế tại các trường đại học ở Việt Nam hiện nay căn cứ theo các giáo trình là tài liệu chính thức của môn học này tại các trường.

2. Phạm vi điều chỉnh  của Tư pháp quốc tế một số nước

Ở Anh, Mỹ, Bỉ, Singapore, Úc và một số nước khác, Tư pháp quốc tế được nghiên cứu dưới góc độ luật xung đột (và ở các nước này Tư pháp quốc tế được gọi với tên gọi phổ biến là Luật xung đột) trong đó tập trung vào ba vấn đề cơ bản là xác định thẩm quyền của tòa án các nước này trong việc giải quyết các tranh chấp tư có yếu tố nước ngoài; vấn đề lựa chọn pháp luật áp dụng cho các tranh chấp trên (choice of law), sau đó là vấn đề về công nhận và thi hành bản án, quyết định của tòa án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài. Cũng cần nhấn mạnh là các vấn đề trên được nghiên cứu trong tất cả các quan hệ pháp luật tư như quan hệ tài sản, quan hệ hợp đồng, về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (torts), quan hệ hôn nhân gia đình, quan hệ phá sản...[5].

Ở Pháp, vấn đề đầu tiên mà tư pháp quốc tế quan tâm là quốc tịch, sau đó là quy chế pháp lý của người nước ngoài tại Pháp. Các vấn đề này được nhìn nhận như là các quy phạm thực chất của Pháp quy định các vấn đề như điều kiện để có quốc tịch Pháp, vấn đề xuất nhập cảnh, cư trú của người nước ngoài, các quyền và nghĩa vụ của họ. Sau đó là vấn đề xung đột pháp luật và xác định thẩm quyền xét xử của tòa án quốc gia, cuối cùng là về công nhận và thi hành bản án, quyết định của tòa án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài.[6]

Ở Bỉ tư pháp quốc tế được nghiên cứu như một ngành luật xung đột, trong đó đề cập chủ yếu đến các vấn đề về xác định thẩm quyền xét xử của tòa án đối với các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài và sau đó là vấn đề lựa chọn pháp luật và công nhận và thi hành bản án, quyết định của tòa án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài.[7]

Tại Liên bang Xô Viết trước đây và hiện nay tại Liên bang Nga và một số nước khác trước đây thuộc Liên bang Xô Viết, với quan điểm cho rằng đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế là các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài, do đó nội dung của Tư pháp quốc tế được nghiên cứu ở phạm vi rất rộng bao gồm các vấn đề liên quan đến xung đột pháp luật, đến địa vị pháp lý của các chủ thể của Tư pháp quốc tế, các quan hệ về quyền sở hữu có yếu tố nước ngoài, thừa kế có yếu tố nước ngoài, quan hệ hợp đồng thương mại quốc tế như hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế, hợp đồng lixăng, quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, quan hệ thanh toán quốc tế, quan hệ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quan hệ hôn nhân, gia đình có yếu tố nước ngoài, quan hệ lao động có yếu tố nước ngoài, quan hệ tố tụng dân sự quốc tế, trọng tài thương mại quốc tế...[8]

Như vậy có thể thấy rằng, mặc dù quan điểm của các nước rất khác nhau trong việc xác định nội dung nghiên cứu của Tư pháp quốc tế nhưng có ba vấn đề mà các nước đều nhìn nhận là thuộc nội dung nghiên cứu của Tư pháp quốc tế, đó là: (i) Xác định thẩm quyền xét xử của tòa án quốc gia đối với các vụ án, vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài; (ii) Xác định luật áp dụng đối với các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài; (iii) Công nhận và thi hành bản án, quyết định của tòa án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài.[9]

3. Phạm vi điều chỉnh của Tư pháp quốc tế Việt Nam và nội dung môn học Tư pháp quốc tế tại Việt Nam

Tại Việt Nam, với quan điểm cho rằng đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế là các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài cho nên nội dung của Tư pháp quốc tế được nghiên cứu ở phạm vi rất rộng bao gồm các vấn đề liên quan đến xung đột pháp luật, đến địa vị pháp lý của các chủ thể của Tư pháp quốc tế, các quan hệ về quyền sở hữu có yếu tố nước ngoài, thừa kế có yếu tố nước ngoài, quan hệ hợp đồng thương mại quốc tế như hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế, hợp đồng lixăng, quan hệ thanh toán quốc tế, quan hệ sở hữu trí tuệ, quan hệ hôn nhân, gia đình, quan hệ lao động có yếu tố nước ngoài, quan hệ tố tụng dân sự quốc tế, trọng tài thương mại quốc tế.[10] So sánh với nội dung Tư pháp quốc tế ở các nước có thể thấy rằng chúng ta đã ủng hộ quan điểm của các tác giả Liên Xô trước đây và hiện nay là Liên Bang Nga.

Việc xác định đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế như ở Việt Nam, Liên Xô trước đây và Liên bang Nga hiện nay gắn liền với lịch sử pháp luật tại các nước xã hội chủ nghĩa, khi mà trong một thời gian dài các ngành luật tư như luật thương mại, luật sở hữu trí tuệ... hầu như không phát triển mà đạo luật chủ yếu điều chỉnh các quan hệ tư là luật dân sự. Do đó, nội dung của Tư pháp quốc tế được nghiên cứu rất rộng, bao gồm tất cả những vấn đề liên quan đến quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng của thuật ngữ này) có yếu tố nước ngoài và cả các quan hệ tố tụng dân sự quốc tế, trọng tài thương mại quốc tế. 

Tuy nhiên, cần phải nhìn nhận rằng hiện nay không chỉ có Tư pháp quốc tế mới điều chỉnh các quan hệ dân sự[11] có yếu tố nước ngoài. Luật thương mại quốc tế cũng tham gia vào việc điều chỉnh các quan hệ thương mại quốc tế cả ở góc độ quan hệ thương mại công và quan hệ thương mại tư. Do đó đã có sự trùng lắp và chồng chéo trong nội dung giảng dạy của Tư pháp quốc tế với Luật thương mại quốc tế. Và trong xu thế mới với việc ban hành các bộ luật hay đạo luật về sở hữu trí tuệ thì sở hữu trí tuệ cũng có thể được thừa nhận là một ngành luật độc lập và một môn khoa học pháp lý độc lập. Điều đó đòi hỏi cần phải nghiên cứu một cách khoa học để xác định rõ nội dung nghiên cứu của Tư pháp quốc tế để không trùng lắp hay lấn sân với các môn khoa học pháp lý khác.         

4. Một số đề xuất

Cá nhân tôi ủng hộ quan điểm của một số nước cho rằng Tư pháp quốc tế chỉ nên tập trung vào ba vấn đề cơ bản là xác định thẩm quyền của tòa án quốc gia trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài, vấn đề lựa chọn pháp luật áp dụng cho các tranh chấp trên (choice of Law), sau đó là vấn đề về công nhận và thi hành bản án, quyết định của tòa án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài. Tuy nhiên cần nhấn mạnh là các vấn đề trên phải được nghiên cứu trong tất cả các chế định cụ thể của Tư pháp quốc tế như quan hệ về tài sản, quan hệ hợp đồng, về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, hôn nhân gia đình... Bên cạnh đó, cần quan tâm đến quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền và nghĩa vụ của người nước ngoài, cơ quan tổ chức nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài trong các quan hệ dân sự và các quan hệ tố tụng dân sự quốc tế. Từ đây, xin mạnh dạn đề xuất:

1. Một số nội dung hiện nay đang được giảng dạy trong chương trình Tư pháp quốc tế của các trường đại học Việt Nam như thanh toán quốc tế, trọng tài thương mại quốc tế (ngoại trừ vấn đề công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài – tuy nhiên về bản chất vấn đề này thuộc phạm vi của tố tụng dân sự quốc tế chứ không phải trọng tài thương mại quốc tế) theo quan điểm cá nhân tôi cho rằng không nên giảng dạy trong chương trình Tư pháp quốc tế mà cần được giảng dạy trong môn Luật thương mại quốc tế. Về hợp đồng có yếu tố nước ngoài trong môn học Tư pháp quốc tế chỉ nên nghiên cứu dưới góc độ ba vấn đề cơ bản của Tư pháp quốc tế như đã đề cập  ở trên, còn nội dung các điều khoản cụ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, hợp đồng vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển,[12] hợp đồng li-xăng nên nghiên cứu trong chương trình môn Luật thương mại quốc tế. Còn nội dung quyền sở hữu trí tuệ được nghiên cứu trong Tư pháp quốc tế nên được tách thành một môn học riêng là Luật quốc tế về sở hữu trí tuệ hoặc Luật sở hữu trí tuệ. Hiện nay mới chỉ có rất ít tài liệu về Tư pháp quốc tế tại Việt Nam là tiếp cận theo hướng này.[13]

2. Cần nhìn nhận rằng không có Tư pháp quốc tế chung cho các nước mà mỗi nước đều có Tư pháp quốc tế của riêng mình. Do đó, quan điểm cá nhân tôi cho rằng nên tập trung giảng dạy sâu vào các quy định của Tư pháp quốc tế Việt Nam cũng như thực tiễn áp dụng. Điều đó không có nghĩa là chúng ta không nghiên cứu quy định của Tư pháp quốc tế các nước vì đây là lĩnh vực chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của quá trình quốc tế hóa. Điều đó xuất phát từ nhiều lý do, trong đó có ba lý do quan trọng. Thứ nhất, sự ảnh hưởng của các điều ước quốc tế ngày càng được ký kết nhiều hơn nhằm giải quyết các vấn đề của Tư pháp quốc tế trong phạm vi khu vực và toàn cầu, ví dụ như Công ước Rome 1980 về luật áp dụng cho các nghĩa vụ hợp đồng, Công ước Lugana và công ước Brussels về công nhận và thi hành bản án của tòa án nước ngoài, công ước New York 1958 về công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài... Thứ hai, khi xây dựng các quy phạm xung đột trong pháp luật quốc gia nhằm hướng dẫn cơ quan có thẩm quyền lựa chọn pháp luật thì các quy định này không thể quá khác biệt hay trái ngược với những quy tắc đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận rộng rãi. Thứ ba, hiểu biết về các quy tắc xung đột, về thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của pháp luật một số nước là một biện pháp giúp chúng ta tự bảo vệ mình trong quan hệ với công dân, pháp nhân các nước đó. Tuy nhiên với cách trình bày của các giáo trình tại Việt Nam hiện nay, khi chúng ta tách những phần giới thiệu quy định của Tư pháp quốc tế các nước về các chế định cụ thể như chuyển dịch rủi ro, quan hệ hôn nhân gia đình, thừa kế... thành các mục riêng biệt thì có thể gây ngộ nhận là chúng ta đang giảng dạy Tư pháp quốc tế chung chứ không phải Tư pháp quốc tế Việt Nam. Hơn nữa, làm như thế chúng ta sẽ có thể không tập trung vào phân tích sâu những vấn đề của Tư pháp quốc tế Việt Nam. Bên cạnh đó, có lẽ cũng cần tăng cường hơn nữa việc giảng dạy bằng tình huống, bằng án lệ để nâng cao giá trị thực tiễn cho môn học này.   

Vẫn biết rằng sự xác định rạch ròi đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế và xác định một cách rõ ràng nội dung nghiên cứu của Tư pháp quốc tế – một môn học rất khó và còn nhiều, rất nhiều vấn đề gây tranh cãi là việc vô cùng phức tạp, đòi hỏi phải có sự đầu tư nghiêm túc, khoa học. Trên đây là một số ý kiến cá nhân được đưa ra với mong muốn được sự trao đổi, chia xẻ của những người làm công tác nghiên cứu và giảng dạy.


[1] Có hai thuật ngữ được sử dụng rộng rãi cho tên gọi của ngành khoa học pháp lý này. Thuật  ngữ “Luật quốc tế tư“ (Private International Law) được sử dụng rộng rãi ở các nước Châu Âu và nhiều nước khác như Trung Quốc, Mông Cổ... Ở Việt Nam trong các giáo trình cũng như các công trình nghiên cứu, chúng ta thống nhất sử dụng thuật ngữ Tư pháp quốc tế. Thuật ngữ Luật xung đột (Conflict of laws) được sử dụng rộng rãi tại các nước như Hoa Kỳ, Anh, Singapore, Úc, Canada... Xem thêm: Lê Thị Nam Giang, Tư pháp quốc tế, Nxb ĐHQG Tp. Hồ Chí Minh 2006, tr. 23-27.

[2] Giáo trình Tư pháp quốc tế – Khoa Luật - ĐHQG Hà Nội 2001, tr. 03 và tr. 13.

[3] Quan điểm này đã được thể hiện trong các giáo trình Tư pháp quốc tế của một số trường đại học của Việt Nam và trong một số sách tham khảo. Ví dụ: Giáo trình Tư pháp quốc tế – trường ĐH Luật Hà Nội, 1997, tr. 7;  Giáo trình Tư pháp quốc tế – Khoa Luật - ĐHQG Hà Nội, 2001, tr. 7; Đoàn Năng,Những vấn đề lý luận cơ bản về Tư pháp quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, 2001, tr. 9.

[4] Ví dụ: L.P. Anufrieva, Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb BEC, Maxcơva 2000; M.M. Bungalaxki,Giáo trình Tư pháp quốc tế, Maxcơva 1989, tr. 12; M.M. Bungalaxki, Giáo trình Tư pháp quốc tế, Maxcơva 1998, tr. 13;  L.A. Luns, Giáo trình Tư pháp quốc tế,  Maxcơva 1970, tr. 10.

[5] Ví dụ Adrian Briggs, The Conflict Of Law, Oxford University Press 2002;  J. G. Collier, Conflict Of Law, 3rd ed, Cambridge University Press 2001; P. M. North and JJ Farcett, Cheshire and North’s Private Internatinaal Law, 12th ed, Butterworth 2002.

[6] M. M. Bungalaxki, sđd; Đỗ văn Đại, Mai Hồng Quỳ, Tư pháp quốc tế Việt Nam, Nxb ĐHQG Tp. Hồ Chí Minh 2006, tr. 21.

[7] Đề cương giảng dạy Tư pháp quốc tế của GS. Arnaud Nuyts, University of Brussels tại ĐHQG Tp. Hồ Chí Minh tháng 01/2001.

[8] ví dụ: L.P. Anufrieva, Giáo trình Tư pháp quốc tế, NXB BEC, Maxcơva 2000; M.M. Bungalaxki,Giáo trình Tư pháp quốc tế, Maxcơva 1989, M.M. Bungalaxki, Giáo trình Tư pháp quốc tế, Maxcơva 1998,  Skaridob AC, Tư pháp quốc tế, Sant- Peterburg 1998; L.A. Luns, Giáo trình Tư pháp quốc tế, Maxcơva 1970.

[9] Xem thêm:  Lê Thị Nam Giang, sđd, tr. 14-16.

[10] Giáo trình Tư pháp quốc tế – Trường ĐH Luật Hà Nội, 2004;  Giáo trình Tư pháp quốc tế – Khoa Luật, ĐHQG Hà Nội, 2001, tr. 7;  Nguyễn Ngọc Lâm, Đề cương bài giảng Tư pháp quốc tế, 2006.

[11] Trong bài viết này, xin được hiểu thuật ngữ dân sự theo nghĩa rộng được quy định tại Điều 1 Bộ luật dân sự 2005: “Bộ luật dân sự quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác; quyền, nghĩa vụ của các chủ thể về nhân thân và tài sản trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự).”

[12] Trong chương trình giảng dạy Tư pháp quốc tế tại trường ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh được áp dụng cho đến thời điểm hiện nay thì hợp đồng vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển được giảng dạy thành một chương riêng với thời lượng 15 tiết.

[13] Ví dụ: Đỗ Văn Đại, Mai Hồng Quỳ, sđd;

SOURCE: TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 6/2006