Hiển thị các bài đăng có nhãn Hoa Kỳ và Trung Quốc. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Hoa Kỳ và Trung Quốc. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 7 tháng 10, 2015

Hiệp Ước TPP – Triển Vọng và Thách Đố

Nguyên Lam & Nguyễn Xuân Nghĩa, RFA Ngày 151007
Diễn đàn Kinh tế 
Việt Nam được lớn, Trung Quốc thua đậm 
 
Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement, viết tắt là TPP) gồm 12 quốc gia thành viên bao gồm Úc, Brunei, Chile, Malaysia, Mexico, New Zealand, Canada, Peru, Singapore, Vietnam, Mỹ và Nhật Bản
* Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement, viết tắt là TPP) gồm 12 quốc gia thành viên bao gồm Úc, Brunei, Chile, Malaysia, Mexico, New Zealand, Canada, Peru, Singapore, Việt Nam, Mỹ và Nhật. File photo * 





Ba tháng sau khi làm các thị trường quốc tế rúng động vì tình trạng suy nhược kinh tế, hôm Thứ Hai mùng năm vừa qua, Trung Quốc lại gây chú ý vì vắng mặt trong một hệ thống hợp tác kinh tế đang thành hình trên vành cung Thái Bình Dương. Đó là Hiệp ước Đối tác Xuyên Thái Bình Dương, được gọi tắt là TPP, để tiến tới tự do thương mại giữa 12 quốc gia hàng năm sản xuất ra gần ba chục ngàn tỷ đô la hay 40% sản lượng kinh tế toàn cầu, trong đó có Việt Nam. Diễn đàn Kinh tế sẽ tìm hiểu về hệ thống hợp tác ấy từ nhiều giác độ khác nhau. Nguyên Lam mở đầu với câu hỏi dành cho chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa như sau:


Nguyên Lam: Xin kính chào ông Nghĩa. Mờ sáng Thứ Hai vừa qua, giờ miền Đông Hoa Kỳ, 12 bộ trưởng hữu trách vừa thông báo thắng lợi lịch sử là đã hoàn tất năm năm đàm phán để tiến tới chế độ tự do thương mại giữa 12 quốc gia trong vành cung Thái Bình Dương, thường được gọi tắt là Hiệp ước Đối tác TPP. Dĩ nhiên là dư luận Việt Nam cũng chú ý đến bản hiệp ước vì Việt Nam là một thành viên trong hệ thống hợp tác quy mô này, dù là thành viên có nền kinh tế non yếu nhất và phải cải cách rất nhiều và rất nhanh hầu khai thác được một cơ hội phát triển mới trong các thập kỷ tới. Trong chương trình kỳ này, xin đề nghị ông phân tích cho nội dung của hợp tác và tính chất chiến lược của một trật tự kinh tế mới vì quốc tế đều nói đến sự vắng mặt của Trung Quốc trong hệ thống đang thành hình.

Nguyễn-Xuân Nghĩa:
- Một cách khái quát thì nội dung chi tiết của các cam kết giữa 12 quốc gia về hơn 70 hồ sơ trình bày trong 30 chương khá dài chỉ được công bố trong nhiều ngày tới. Lý do là các cơ quan chuyên môn còn phải qua phần kỹ thuật là trình bày, rà soát ngôn từ luật pháp, phiên dịch rồi kiểm lại văn bản, v.v… trước khi có một văn kiện được quốc hội các nước cứu xét và phê chuẩn. Mặc dù nội dung chi tiết chưa được công bố sau năm năm và hơn hai chục vòng thương thuyết, người ta cũng đặt nhiều kỳ vọng về hệ thống tự do thương mai và đầu tư đang hình thành giữa 12 quốc gia có sản lượng kinh tế bằng 40% của toàn cầu.

- Song song, như cô vừa hỏi, người ta cũng chú ý đến sự kiện Trung Quốc vắng mặt trong hệ thống tự do này khi nền kinh tế đứng hạng nhì thế giới có dấu hiệu sa sút sau ba chục năm gây kinh ngạc. Vì vậy, bối cảnh chung là 1) sự xuất hiện của một trật tự kinh tế mới trên vành cung Thái Bình Dương, chủ yếu là Á Châu, khi 2) Trung Quốc chưa lên tới đỉnh với tham vọng của một siêu cường đã lại có chỉ dấu thoái trào và 3) chi tiết của hệ thống hợp tác mới đang được công khai hóa.

Những kinh nghiệm đó cho thấy giá trị của tự do trao đổi và trong cụ thể thì dù Hoa Kỳ có thể hưởng lợi nhiều khi buôn bán với 11 nước kia, mối lợi ấy vẫn chưa bằng những gì mà các nước chậm phát triển nhất sẽ được sau này. Việt Nam là thành viên được mọi nơi đánh giá là sẽ có lợi nhất... Nguyễn-Xuân Nghĩa

Nguyên Lam: Chúng ta sẽ đi qua ba bước phân tích như ông vừa tóm lược về bối cảnh. Trước hết, hệ thống hợp tác TPP đang thành hình là cái gì?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Ta hãy cùng nhớ về một thời điểm then chốt, gần như là điểm lật vào năm 2008. Năm đó, Hoa Kỳ vừa bị khủng hoảng tài chính và toàn cầu bị nạn Tổng suy trầm khi Trung Quốc ào ạt bơm tiền kích thích kinh tế để vượt Nhật Bản thành nền kinh tế đứng hạng nhì về sản lượng. Năm đó, Hoa Kỳ mới chú ý đến sáng kiến hợp tác giữa bốn nước nhỏ là Singapore, Brunei, Chile và New Zealand và xin tham gia để xây dựng hệ thống giao dịch tự do về đầu tư và mậu dịch. Do sự tham gia của nền kinh tế dù sao vẫn giàu mạnh nhất, nhiều nước lần lượt hưởng ứng và mở ra vòng đàm phán khi cơ chế tự do thương mại đa phương là Tổ chức Thương mại Quốc tế WTO lại lâm vào bế tắc từ Tháng 10 năm 2008.

- Thế rồi, Hoa Kỳ có lãnh đạo mới sau cuộc bầu cử cuối năm 2008 then chốt đó và Chính quyền Barack Obama thuộc đảng Dân Chủ lại có xu hướng bảo hộ mậu dịch rất mạnh và mất cả năm suy nghĩ, cân nhắc rồi mới hiểu ra lợi ích sâu xa của tự do mậu dịch để lại thúc đẩy việc đàm phán kể từ năm 2010. Hai năm sau, nền kinh tế đứng hạng ba là Nhật Bản mới vào cuộc. Tổng cộng là hiện có 12 quốc gia tham dự vào vòng đàm phán, nhưng không mời Trung Quốc.

Nguyên Lam: Hèn gì người ta cứ nói là thương thuyết mất hơn năm năm mới xong. Thưa ông, một cách khái quát thì các nước của hệ thống gọi là TPP đã đàm phán với nhau về những gì?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Nguyên tắc chung mà họ nhắm tới là chế độ trao đổi tự do, hết còn hàng rào quan thuế hay hạn chế, hạn ngạch về lượng lẫn phẩm để nhờ quy luật thị trường mà đem lại thịnh vượng cho mọi đối tác trong cuộc. Thể thức tiến hành là sự cam kết giải tỏa và cải cách để cùng tạo ra sân chơi bình đẳng trong một thị trường chung cho cả tập thể. Khi ấy, vì khác biệt về trình độ phát triển và hệ thống quản lý giữa các nước, họ phải đàm phán và tranh đấu về thể thức, điều kiện và thời hạn giải tỏa để trong một vài năm hay cả chục năm tới thì xây dựng được một trật tự mới.

- Một cách cụ thể thì sẽ triệt tiêu hơn 18 ngàn rào cản về thuế suất nhập nội để các nước tự do buôn bán với nhau theo một trình tự thật ra khá phức tạp mà chúng ta chỉ hiểu ra dần dần khi nội dung của bản hiệp ước được công bố. Nếu thấy ra các vấn đề có vẻ tạp nhạp như trứng, sữa, gạo, hay cao cấp như xe hơi, dược phẩm được cãi cọ cùng với chuyện môi sinh, công nghệ tin học, hay quyền sở hữu trí tuệ, ta phải hình dung ra một thế giới mới của thế kỷ 21….

Trong hệ thống TPP, Việt Nam sẽ có hậu phương lớn của 11 nước để từ bông vải qua dệt sợi mà tiến vào thị trường áo quần may mặc hoặc từ các phụ kiện điện tử mà lên tới trình độ chế biến cao hơn, có giá trị hơn. Với một hậu phương mới, kinh tế Việt Nam sẽ bớt lệ thuộc vào nguồn cung cấp nguyên vật liệu của Trung Quốc nên khó bị Bắc Kinh khuynh đảo - Nguyễn-Xuân Nghĩa

Nguyên Lam: Như ông vừa trình bày thì cái trật tự kinh tế mới chỉ bước vào giai đoạn hình thành và có phải là khi các thông tin chi tiết được công bố thì người ta mới biết thêm về triển vọng hay các rủi ro của tương lai không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa là đúng như vậy và mọi số liệu về lợi hay hại của tự do thương mại mới chỉ là dự phóng, căn cứ trên kinh nghiệm của trăm năm tự do hay bảo hộ mậu dịch giữa các nước với nhau. Những kinh nghiệm đó cho thấy giá trị của tự do trao đổi và trong cụ thể thì dù Hoa Kỳ có thể hưởng lợi nhiều khi buôn bán với 11 nước kia, mối lợi ấy vẫn chưa bằng những gì mà các nước chậm phát triển nhất sẽ được sau này. Việt Nam là thành viên được mọi nơi đánh giá là sẽ có lợi nhất nhưng chính vì vậy mà sẽ bị xu hướng bảo hộ mậu dịch rất mạnh trong đảng Dân Chủ của nghiệp đoàn của nước Mỹ xoi mói và đả kích nhiều nhất, nào là có điều kiện lao động tồi tệ hay nhân quyền và môi sinh không được bảo vệ. Lý do mà tôi cho là lạc hậu của xu hướng này là Việt Nam chiếm lợi thế nhờ nhân công rẻ lãnh lương thấp nên sẽ làm lao động Mỹ  mất việc. Nó cũng lạc hậu như lý luận tự do mậu dịch làm khu vực chế biến tại Mỹ sa sút vì doanh nghiệp Mỹ đầu tư ra ngoài. Trong các năm tháng tới, ta sẽ còn thấy bùng nổ cuộc tranh luận này trong khi Việt Nam và nhiều xứ khác phải ráo riết cải cách để thực hiện những cam kết của mình.

Nguyên Lam: Giữa các chi tiết trùng điệp và phức tạp về tương lai lồng trong dự kiến hợp tác có quy mô toàn cầu, thưa ông, thế nào là một cách phán đoán về lẽ đúng sai và được thua?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi thiển nghĩ rằng quy tắc phán đoán ở đây có hai mặt. Về nhận thức thì thành phần nào có lợi nhờ tự do sẽ ít nói đến mối lợi trong khi thành phần phải cạnh tranh thì chỉ nêu ra những điểm tiêu cực và ồn ào đả kích làm dư luận càng khó hiểu ra lợi hại của thực tế, vì nhận thức sai. Mặt kia về thực tế thì xứ nào sớm cải cách cơ chế để tiến tới tự do thì sẽ thành công hơn các nước hay thành phần chỉ muốn bảo vệ nguyên trạng. Cải cách cơ chế cũng quan trọng như xây dựng hạ tầng cơ sở và bảo vệ nguyên trạng của đặc quyền đặc lợi thì cũng tai hại như phá hủy cầu đường của chính mình. Cũng vì thế mà thông tin sẽ giữ vai trò quan trọng cho nhận thức và ý chí cải cách để giải phóng tiềm lực quốc gia, và ra khỏi sự kiềm tỏa của nhà nước.

Nguyên Lam: Hình như ông đang ám chỉ yêu cầu cải cách cho Việt Nam, là gỡ bỏ nguyên trạng của hệ thống doanh nghiệp nhà nước và cải thiện điều kiện lao động, môi sinh hay nhân quyền để giải phóng sức sản xuất của người dân hầu tiến tới thịnh vượng và phát triển. Thưa ông, ta bước vào phần thứ ba là vị trí của Trung Quốc trong cái trật tự mới đang được hình thành. Ông nhận xét thế nào về trật tự mới này?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Trung Quốc đang đi vào nhiều năm thoái trào, cũng sẽ phải cải tổ để chuyển qua hướng phát triển mới hầu khỏi bị nội loạn. Nhưng tính chủ quan duy ý chí của lãnh đạo khiến họ đề xướng nhiều sáng kiến to tát cho các nước, như mở ra Con Đường Tơ Lụa Mới với sáu hành lang kinh tế dọc ngang từ Á sang Âu ngoài biển và trên đất liền, hoặc các dự án thành lập ngân hàng đầu tư hay phát triển cấp vùng, v.v…. Đùng một cái người ta thấy ra nhược điểm sinh tử của nền kinh tế mắc nợ đang bị suy trầm tại Trung Quốc trước sự lúng túng can thiệp hay kiểm soát mà vẫn bất lực của lãnh đạo. Biến cố 2008 nay mới dẫn tới một bước ngoặt khác!

- Thế rồi, vào đúng lúc này, hệ thống TPP lại có hy vọng thành hình sau năm năm trăn trở để từ nay các nước Á Châu có thể phát triển gắn bó hơn với Hoa Kỳ và Nhật bản là hai đầu máy khác của kinh tế toàn cầu. Trong vài năm nữa thôi, Nam Hàn và cả Đài Loan cũng sẽ gia nhập, khi ấy, các nước sẽ có sự chọn lựa giữa hai hình thái phát triển gần như đối nghịch về học thuyết kinh tế, giữa tự do kiểu TPP và kiểm soát kiểu Bắc Kinh. Hậu qủa ngoài kinh tế của hình thái phát triển ấy là những cân nhắc về an ninh chiến lược vì các sáng kiến kinh tế do Trung Quốc đề ra đều có nội dung và mục đích là an ninh, nhằm củng cố vai trò và ảnh hưởng của Bắc Kinh trên các nước.

Nguyên Lam: Câu hỏi cuối, thưa ông, Việt Nam nên tự chuẩn bị thế nào cho tình huống mới mà đạt kết quả phát triển nhưng cũng tránh được nhiều rủi ro?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Sau ba thập niên trôi dần vào trật tự Trung Quốc vì lãnh đạo chỉ muốn bảo vệ quyền lợi của đảng độc quyền và tay chân thân tộc ở dưới, Việt Nam có cơ hội thoát khỏi tình trạng lệ thuộc về kinh tế lẫn bế tắc về lý luận và nhất là thoát khỏi vòng kiềm tỏa về an ninh chiến lược của Bắc Kinh. Đấy là khung cảnh lớn của các bài toán chuyên môn về chính sách và cải cách. Nếu muốn khai thác cơ hội mới cho thắng lợi thì Việt Nam phải thay đổi tư tưởng và cải cách về tổ chức để người dân có quyền chọn lựa, một cách tự do, để làm chủ vận mệnh của mình.

- Một thí dụ thiết thực là trong hệ thống TPP, Việt Nam sẽ có hậu phương lớn của 11 nước để từ bông vải qua dệt sợi mà tiến vào thị trường áo quần may mặc hoặc từ các phụ kiện điện tử mà lên tới trình độ chế biến cao hơn, có giá trị hơn. Với một hậu phương mới, kinh tế Việt Nam sẽ bớt lệ thuộc vào nguồn cung cấp nguyên vật liệu của Trung Quốc nên khó bị Bắc Kinh khuynh đảo. Các thị trường quốc tế đều đánh giá là từ hệ thống TPP, Việt Nam có lợi nhất và Trung Quốc bị thiệt hại nhất. Việt Nam phải mau chóng cải sửa để biến dự phóng ấy thành hiện thực. Lãnh đạo mà không dám hay không muốn thì người dân phải làm vì đấy mới là tương lai xứng đáng của mình.

Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do xin cảm tạ chuyên gia Nguyễn-Xuân Nghĩa về những phân tích này.


Thứ Ba, 22 tháng 9, 2015

Ngân Hàng Trung Ương Mỹ Gieo Hoang Mang


Gia tăng rủi ro khi giữ lãi suất quá thấp quá lâu  



Gia tăng rủi ro khi lãi suất Mỹ thấp kỷ lục
* Thống đốc Cục Dự trữ Liên bang Janet Yellen tại cuộc họp báo ngày 17/09/2015. REUTERS/Jonathan Ernst * 
 
 
Việc Ngân hàng Trung ương Mỹ giữ nguyên lãi suất chỉ đạo ở mức gần như số không tiếp tục gây tranh cãi. Đâu là động cơ khiến Fed ghìm lãi suất ở mức thấp kỷ lục? Thái độ chần chờ đó là cơ may hay là mầm mống rủi ro đối với các nền kinh tế đang trỗi dậy? Tại sao Thống đốc Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ liên tục băn khoăn trước những khó khăn kinh tế của Trung Quốc?


Mổ sẻ quyết định của Cục Dự trữ Liên bang không điều chỉnh lãi suất chỉ đạo, không siết chặt chính sách tiền tệ, từ California chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa, ngạc nhiên khi thấy bà Janet Yellen trong cuộc họp báo hôm 17/09/2015 liên tục nhắc đến những khó khăn của Trung Quốc và của nhiều quốc gia khác trên thế giới: Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ không có chức năng bảo đảm ổn định kinh tế, tài chính cho toàn cầu.

Trong bối cảnh kinh tế Mỹ đã có dấu hiệu phục hồi sau khủng hoảng tài chính năm 2008 với những chỉ số khả quan: tỷ lệ thất nghiệp hiện đã rơi xuống còn 5,1 % tức là xuống mức thấp nhất trong 7 năm trở lại đây; Hoa Kỳ không phải đối mặt với lạm phát, nhờ giá năng lượng và nguyên, nhiên liệu giảm mạnh; tỷ lệ tăng trưởng được dự báo dao động trên dưới 2,5 %. Mọi người chờ đợi Ngân hàng Trung ương Mỹ siết lại chính sách tiền tệ sau gần 8 năm ghìm lãi suất chỉ đạo ở gần như là 0 %.

Tất cả những tính toán đó đã bị Fed xua tan sau hai ngày họp 16 và 17/09/2015 của Hội đồng tiền tệ FOMC. Trái với thông lệ, việc Mỹ không tăng lãi suất không được các thị trường tài chính đón nhận như một tin vui. Trong phiên giao dịch ngày 18/09/15, chỉ giá trên hầu hết các sàn chứng khoán chính quốc tế đã giảm mạnh. Quyết định giữ nguyên hiện trạng của chính sách tiền tệ, với lãi suất thấp ở mức sàn – 0 đến 0,25 % - của Ngân hàng Trung ương Mỹ gây lo ngại: những tín hiệu đáng lo ngại phát đi từ Trung Quốc, nền kinh tế thứ hai toàn cầu, được Thống đốc Yellen nêu lên là nguyên nhân hay cái cớ để Fed hoãn tăng lãi suất?

Nếu Trung Quốc là nguyên nhân của vấn đề, thì đây là lần đầu tiên Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đưa ra một quyết định ngoài chức năng của mình, do Fed theo đuổi hai mục tiêu: Ổn định giá cả và tăng trưởng, lao động trên nội địa của Hoa Kỳ. Còn nếu như Trung Quốc chỉ là cái cớ hoãn binh của Hội đồng tiền tệ FOMC thì phải chăng các giới chức tài chính Mỹ không thực sự an tâm về sự phục hồi của chính kinh tế Hoa Kỳ?


Trả lời đài RFI, trước hết chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa phân tích thêm về bốn yếu tố giải thích cho thái độ thụ động vừa qua của Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Qua quyết định không tăng lãi suất ngắn hạn, Ngân hàng Trung ương Mỹ đã một lúc chứng minh ít ra bốn chuyện: 

- Thứ nhất, chính sách hạ lãi suất đến sàn từ 81 tháng qua, rồi ào ạt bơm tiền qua ba đợt liền thật ra chẳng mấy công hiệu. Kinh tế Mỹ có mức hồi phục chậm nhất sau nạn suy trầm đã manh nha từ cuối năm 2007. Nếu thất nghiệp có giảm - tháng qua chỉ còn 5,1% - thì lợi tức đa số người dân vẫn chưa trở về mức cũ. Nói cách khác, Ngân hàng Trung ương Mỹ cho rằng Hoa Kỳ chưa trở về trạng thái bình thường để có thể tăng lãi suất ra khỏi tình trạng quá bất thường là mấp mé ở số không.

- Thứ hai, sau hai ngày họp 16 và 17/09/201 của Hội đồng Tiền tệ FOMC, cơ chế hữu trách về lãi suất ngắn hạn của Ngân hàng Trung ương Mỹ, bản tuyên bố chính thức cho thấy định chế này mù mờ về tương lai, cụ thể là thiếu khả năng dự báo về mức lạm phát như một tiêu chuẩn quyết định là tăng 2%. Vì không tiên đoán được tương lai, dù có những chuyên gia và mô thức kinh tế tân kỳ nhất, Ngân hàng Trung ương Mỹ mới trì hoãn quyết định về lãi suất - ít ra là thêm sáu tuần nữa, cho đến kỳ họp tới của Hội đồng Tiền tệ vào hai ngày 27 và 28/10/2015. Chính sự phân vân ấy mới khiến thị trường chứng khoán tuột dốc vì các doanh nghiệp e rằng cơ quan có trách nhiệm về chính sách tiền tệ và tín dụng lại không nắm vững tình hình hoặc dự phóng rằng tình hình còn có thể tệ hơn nữa.

- Thứ ba, bản thân tôi còn thấy một mối nguy khác là định chế lãnh đạo hệ thống ngân hàng của Hoa Kỳ lại hốt hoảng về sự hốt hoảng của thị trường chứng khoán Mỹ trong tháng qua. Đây là điều bất thường vì khác với Trung Quốc, Ngân hàng Trung ương Mỹ không có chức năng hay nhiệm vụ can thiệp vào thị trường chứng khoán. Khi duy trì lãi suất ở số không quá lâu, định chế này còn mặc nhiên điều phối dòng tư bản vào thị trường cổ phiếu, khiến cổ phiếu tăng giá một cách bất thường rồi khi thấy thị trường này hốt hoảng sụt giá thì lại không dám tái lập trạng thái bình thường là nâng lãi suất, dù chỉ ở mức thấp là có 25 điểm, hay 0,25%.

- Nghiêm trọng hơn thế là nửa tiếng sau bản thông cáo, Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Liên bang, bà Janet Yellen có cuộc họp báo. Trong một giờ, bà sáu lần nhắc đến Trung Quốc và 10 lần nói tới kinh tế toàn cầu, trong đó cũng có kinh tế Trung Quốc. Khác với kỳ họp trước vào tháng 7/2015, lần này Ngân hàng Trung ương căn cứ trên sự bất trắc của kinh tế toàn cầu mà quyết định về chính sách tiền tệ của Mỹ. Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ không có nhiệm vụ duy trì lãi suất ở số không để cấp cứu kinh tế toàn cầu. Quyết định ấy không chỉ gây tranh luận trong giới kinh tế mà còn đào sâu dị biệt quan điểm ngay trong thành phần 12 người lãnh đạo Hội đồng Dự trữ Liên bang.

RFI: Dù sao tình hình kinh tế Trung Quốc cũng đáng quan ngại vì Trung Quốc là nền kinh tế thứ nhì của thế giới và sự sa sút của Trung Quốc sẽ ảnh hưởng đến các nền kinh tế trong nhóm gọi là “đang phát triển” và gián tiếp ảnh hưởng đến kinh tế Hoa Kỳ? Trung Quốc là cái cớ hay nguyên nhân để Mỹ không tăng lãi suất?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Lý do hay lý cớ thì chưa rõ, nhưng kinh tế Trung Quốc không sa sút từ Tháng Sáu và Bảy sau vụ sụt giá cổ phiếu rồi vụ phá giá đồng nhân dân tệ vào Tháng Tám. Kinh tế Trung Quốc sa sút từ năm 2010 mà Ngân hàng Trung ương Mỹ đáng lẽ phải biết. Thứ nữa, nạn suy trầm ấy làm nguyên nhiên vật liệu hay thương phẩm sụt giá từ bốn năm nay chứ có là điều gì mới xảy ra đâu ?

- Quả thật là hai bạn hàng lớn nhất của kinh tế Hoa Kỳ là Canada và Trung Quốc đang bị suy trầm, nhưng tác dụng vào kinh tế Hoa Kỳ không lớn như người ta nghĩ vì nước Mỹ ít lệ thuộc vào xuất nhập cảng. Trái lại, quyết định không nâng lãi suất khiến đồng đô la Mỹ không tăng mà sụt và gây khó cho Ngân hàng Trung ương Âu Châu vì làm đồng euro lên giá và hàng Âu Châu khó xuất cảng. Đấy là lý do khiến thị trường Âu Châu sụt giá vào ngày 18/09/2015.

- Tôi không tin vào “thuyết âm mưu” hay “conspiracy theory” nhưng e là Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ vừa có một cử chỉ đẹp với Bắc Kinh khi duy trì lãi suất ở số không vì mặc nhiên giảm sức ép cho kinh tế và cho đồng tiền của Trung Quốc. Hãy tưởng tượng ra sự hốt hoảng của Bắc Kinh nếu lãi suất tăng sẽ làm Mỹ kim càng lên giá và kéo theo đồng bạc Trung Quốc. Khi ấy, họ lại phải phá giá nữa trong khi tư bản càng tháo chạy ra khỏi thị trường Trung Quốc.

- Ngân hàng Trung ương Mỹ không có chức năng ngoại giao và các thành viên trong Hội đồng Tiền tệ FOMC đều hiểu rằng họ có nhiệm vụ quan tâm đến kinh tế Hoa Kỳ, đến thị trường nội địa, chứ không phải là cấp cứu kinh tế Trung Quốc. Vì vậy, khi phải điều trần trước các ủy ban ngân hàng và tiền tệ của Hạ viện và Thượng viện Hoa Kỳ, tôi nghĩ rằng thể nào Chủ tịch Janet Yellen cũng sẽ bị vặn hỏi về quyết định này.

RFI: Thế còn tác động của việc không tăng lãi suất đối với nền kinh tế Mỹ?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thứ nhất, khi giữ lãi suất ở số không và nếu thông báo là “chúng tôi chưa tăng lãi suất kỳ này, nhưng sẵn sàng nếu tình hình kinh tế Hoa Kỳ có dấu hiệu khả quan hơn” thì ai cũng có thể hiểu được và tin tưởng. Nhưng khi lòng vòng nói đến tình trạng bất định của kinh tế Hoa Kỳ và bất trắc của kinh tế toàn cầu thì Ngân hàng Trung ương Mỹ gây thêm hoang mang, điều ấy càng dẫn tới biến động trên thị trường trong thời gian tới.

- Một số chuyên gia về động thái của Ngân hàng Trung ương Mỹ còn đoán rằng lãi suất sẽ không tăng trong kỳ họp Tháng 10 rồi Tháng 12 mà phải đợi năm tới. 2015 cũng là năm có tranh cử Tổng thống với nhiều yếu tố chính trị sẽ chi phối giới lãnh đạo định chế này. Ta không quên rằng đa số của giới lãnh đạo này là giáo sư kinh tế, theo xu hướng thiên tả của trường phái Keynesien và có ít kinh nghiệm về ngân hàng.

- Nói về tác động của việc duy trì lãi suất ở số không một cách bất thường và quá lâu như vậy thì chúng ta nên nhớ rằng biện pháp giả tạo này làm lệch cán cung cầu và lãi suất hay giá vay tiền hết là một chỉ dấu xác thực và đáng tin về cung cầu. Đi vào chi tiết thì giới tiết kiệm và thành phần cao niên sống nhờ hưu liễm bị thiệt vì phân lời quá thấp. Giới trẻ thì quên hẳn khái niệm tiết kiệm vì thấy chẳng có lợi.

- Lãi suất thấp khiến các ngân hàng ghim một khối dự trữ cao hơn mức pháp định tối thiểu và lại cho nhà nước vay hơn là tài trợ đầu tư nên khó giúp kinh tế hồi phục. Lãi suất thấp cũng thổi lên bong bóng trên thị trường cổ phiếu, làm giàu cho giới đầu tư có tiền ở chóp bu mà chẳng giúp gì các cơ sở nhỏ và vừa hoặc thuộc loại tân lập ở dưới. Nói vắn tắt thì lãi suất bằng số không đã và sẽ còn gây lệch lạc cho thị trường và nếu kinh tế năm tới mà bị suy trầm thì Ngân hàng Trung ương chẳng thể hạ lãi suất xuống số âm để kích thích sản xuất.

RFI: Hậu quả cho kinh tế thế giới?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Chẳng riêng gì Hoa Kỳ mà nhiều quốc gia cũng đã hạ lãi suất đến sàn kể từ năm 2008. Hậu quả bất lường của chính sách ấy là tiền nhiều và rẻ khiến các nước lại vay mượn nhiều hơn. Theo Viện Nghiên cứu McKinsey thì tổng số nợ trên thế giới đã tăng 40% kể từ năm 2007 và nay lên tới 200 ngàn tỷ đô la. Mà lãi suất không thể nằm mãi ở số không như vậy nên sẽ phải tăng và chi phí trả nợ cũng vậy. Khi ấy, núi nợ sẽ sụp và bên trong các khoản nợ xấu tích lũy từ mấy năm nay sẽ dẫn đến nạn suy thoái chứ không phải là suy trầm kinh tế.

- Những gì đã xảy ra cho Hy Lạp thật chưa thấm vào đâu so với trận động đất tài chánh sắp tới, tại Trung Quốc lẫn nhiều quốc gia đang phát triển khác. Trong khi chờ đợi cái “ngày tính sổ” ấy, người ta có thể thở phào khi Ngân hàng Trung ương Mỹ chưa nâng lãi suất, nhưng được bao lâu?

- Kết luận ở đây, ít ra là cho các nước đang phát triển như Việt Nam, là người ta nên chú ý đến việc cải sửa cơ chế để thu hút đầu tư trực tiếp của ngoại quốc vào các dự án lâu dài, hơn là tính ăn xổi nhờ sai biệt lãi suất là đầu tư vào thị trường tài chánh vì loại đầu tư ấy trút vào rất nhanh mà rút ra cũng lẹ nên rất dễ gây khủng hoảng.

Thứ Sáu, 4 tháng 9, 2015

Thế Sự Đảo Điên



Nguyễn-Xuân Nghĩa - Việt Báo Ngày 150904

Khi Bắc Kinh Ăn Mừng Thắng Nhật Thì Nước Mỹ Nên Ăn Năn

 * Cho em khoe đồ chơi mới, láng coóng và ác liệt! *



Trong cuộc biểu dương khí thế Trung Quốc vào ngày Thứ Năm mùng ba vửa qua khi Bắc Kinh ăn mừng chiến thắng chống Phát xít Nhật, người vắng mặt lẫy lừng không phải là Mao Trạch Đông mà là Tưởng Giới Thạch!

Trước hết, xin chiều lòng ban tổ chức, là Tập Cận Bình và toàn ban, để nói về ấn tượng Quang diện Trung Hoa mà họ muốn tỏa sáng cho thế giới chiêm ngưỡng:

Khí trời Bắc Kinh được khai quang, tin tức tài chánh được đông lạnh, cổ phiếu được nâng giá. Tương lai là sự dũng mãnh huy hoàng của Giải phóng quân, với 12 ngàn lính cao to trẻ đẹp, 500 thiết vận xa đủ loại, 200 chiến đấu cơ siêu thanh và những võ khí hiện đại nhất được phô diễn. Bắc Kinh bày ra nhiều lớp hỏa tiễn có thể xuyên thủng căn cứ Okinawa ở gần hay Guam ở xa và đánh chìm hàng không mẫu hạm của Mỹ. Sợ thế gian - và tình báo quốc tế - không hiểu khả năng của dàn ám khí siêu hạng và ý chí gián chỉ (can gián và cấm chỉ) của Thiên triều, ban tổ chức cẩn thận dán nhãn ngoại ngữ than vì chữ Hán lên từng võ khí. Còn hải quân của Bắc Kinh gửi năm chiến hạm vào Eo biển Bering, lờn vờn trong hải phận Hoa Kỳ, cách Alaska dưới 12 hải lý, khi Barack Obama qua đó nói chuyện nhiệt hóa địa cầu!

Bắc Kinh vừa gửi "Tuyên ngôn Quật khởi" cho riêng Hoa Kỳ.

Nước Mỹ sẽ trả gia rất đắt nếu xớ rớ vào vùng trái độn quân sự do Bắc Kinh vẽ ra trên không gian Á Châu. Hết rồi, những trận địa chiến như ở Triều Tiên. Cũng hết rồi, khả năng tung hoành của Hoa Kỳ như đã từng thấy tại Iraq vào năm 1991 hay 2003. Á Châu từ nay đã có chủ.

Đấy là lúc mà những người có trí nhớ tại Hoa Kỳ tần ngần nhìn lại nước Mỹ.


*


Hội nghị Cairo 1943: Tưởng Giới Thạch, Roosevelt và Churchill - Kẻ dạng chân mới khốn nạn 


Họ có thể đã quên Tổng thống Cộng Hòa Theodore Roosevelt và Chiến tranh Nga-Nhật năm 1905 với Giải Nobel Hòa Bình, nhưng không quên được Tổng thống Roosevelt kia, bên đảng Dân Chủ.

Tháng 11 Năm 1943, khi đến Cairo của xứ Ai Cập dự thượng đỉnh về chiến lược chống Nhật tại Á Châu với lãnh tụ Anh là Thủ tướng Winston Churchill cùng lãnh tụ Trung Hoa Dân Quốc là Đại thống tướng Tưởng Giới Thạch, Franklin D. Roosevelt không che giấu sự khó chịu với họ Tưởng. Chẳng khác gì ác cảm dành cho Tướng Charles de Gaulle của Pháp. Ông nói thầm với một vị chỉ huy quân lực Mỹ tại Trung Hoa là Thiếu tướng Joseph Stilwell, rằng “nếu không thể đi với Tưởng mà cũng chẳng thay được Tưởng thì có còn cách vĩnh viễn bỏ Tưởng”.

Tướng Stilwell hiểu câu hỏi và chỉ thị của thượng cấp: “Ông biết tôi muốn gì chứ? Hãy tìm ra tay nào mình xử lý được.” Trở về Trùng Khánh, Stilwell tìm cách thi hành mệnh lệnh mờ ám qua lối nói mờ ảo của Tổng thống.

Người thực hiện việc đó là Tướng Frank “Pinky” Dorn với hai ba kế hoạch dàn dựng trong đầu. Một là máy bay Tưởng Giới Thạch đi thị sát căn cứ huấn luyện Ramgarh tại vùng Đông Bắc Ấn Độ bị trục trặc và mọi người phải nhảy dù thoát nạn mà dù của Tưởng là dù.... giả. Hai là dùng lại mưu đánh độc dược bằng chất botulinum mà Stilwell ấp ủ trong đầu từ trước. Y như Roosevelt, Stilwell không chịu được Tưởng Giới Thạch.

May là họ không thành công! Tổng thống Ngô Đình Diệm không được may như vậy.

Lý do dễ hiểu mà Roosevelt không chấp nhận Tưởng Giới Thạch: dưới con mắt họ Tưởng, Nhật là bệnh ngoài da, Cộng mới là bệnh nội tạng. Người Mỹ chẳng hiểu rằng Hoa Kỳ chỉ nhập cuộc Á Châu từ cuối năm 1941. Tưởng Giới Thạch thì phải đương đầu với Nhật từ rất sớm, đã hy sinh các sĩ quan ưu tú nhất trong trận đánh đẫm máu ở Thượng Hải năm 1937 và rải quân để cầm chân một triệu lính Nhật trên các chiến trường Hoa lục cho Mỹ tổng phản công từ Thái Bình Dương. Nhưng tội của Tưởng nhìn ra sự lớn mạnh của đảng Cộng sản Trung Hoa nên giữ các đơn vị thiện chiến nhất của mình để chặn đường bành trướng của Mao lên mạn Bắc.

Vì vậy mới bị Roosevelt tuyên án tử hình kín!

Họ Tưởng sống đủ lâu - mất năm 1975 tại Đài Loan, hưởng thọ 87 tuổi - để thấy ra điều ấy. Khi Nhật bị Mỹ đánh bại thì các đơn vị của ông tại Mãn Châu lại bị cầm chân vì lệnh ngưng bắn của Tổng thống Harry Truman, rồi bị Mao tiêu diệt vào cuối năm 1948. Chuyện sau này là lịch sử: Quốc dân đảng bại trận phải chạy qua Đài Loan, Mao vào Bắc Kinh thiết lập một chế độ còn hà khắc hơn Phát xít Nhật, độc tài hơn Tưởng. 

Và là đồng minh chiến lược của Liên bang Xô viết cho tới 1969.

Roosevelt chết sớm trong hào quang rạng ngời vào năm 1945 nên không biết. Các sử gia Mỹ thì mù lòa cận thị mấy chục năm nên cũng lải nhải luận điệu chống Tưởng cho đến sau này. Mỹ tốn quân đánh bại Nhật Bản, khinh miệt đồng minh rồi hy sinh binh lính của mình trong trận chiến Cao Ly với Tầu, Tưởng mang tiếng bại trận và Mao là lãnh tụ vĩ đại đã chiến thắng Phát xít Nhật!

Thế giới đảo điên.

Chưa đủ phi lý, giữa hai trái bom nguyên tử của Mỹ, mùng bảy Tháng Tám năm 1945, Liên Xô mới khai chiến với Nhật và đưa quân vào cướp luôn các quần đảo Chishima tại miền Bắc của Nhật (Kuril). Sau đó, Hoa Kỳ giải giới Nhật Bản nhưng vẽ lại bản đồ chống đà bành trướng của khối cộng sản Nga-Hoa tại Đông Á và kéo Việt Nam vào cuộc. Rồi lại kết giao với Mao từ năm 1972 để chống Liên Xô, nhân tiện cho một tiền đồn chống cộng xuống biển là Việt Nam Cộng Hòa và đạp Trung Hoa Dân Quốc ra khỏi Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc để nhường ghế cho Bắc Kinh.

Ngày nay, Nga-Hoa đề huề ăn mừng chiến thắng chống Nhật trên khán đài và Tập Cận Bình biểu dương khí thế chống Mỹ!


*


Nhưng hình như là lịch sử còn phi lý hơn thế.

Từ Tháng Hai 1947, Tưởng Giới Thạch đã đàn áp dân Đài Loan để có một địa bàn mới. Sau 1949 thì đem vào đó nhân sự Quốc dân đảng và giấc mơ Quang phục Trung Hoa (“hồi phục đại lục” là khẩu hiệu chính thức) để thiết lập chế độ mới tại đây như một bàn đạp quật khởi. Con trai ông, Tưởng Kinh Quốc, được Liên Xô huấn luyện, là người tiếp nối sự nghiệp đó nhưng với một thay đổi lớn: áp dụng kinh tế thị trường để phát triển quốc gia mà cũng tự chuyển hóa dần sang chế độ dân chủ.

Với thời gian, giấc mơ quang phục của những người đến từ Hoa lục càng phai lạt thì đời sống người dân càng cải thiện. 

Dân bản địa Đài Loan có thể tạm quên vụ tàn sát năm xưa – Viện Bảo tàng và Công viên tưởng niệm Biến cố 228 (ngày 28 Tháng Hai) vẫn còn đó – nhưng họ thấy gắn bó với một tương lai chẳng còn liên hệ gì tới Hoa lục. Năm 1996, Đài Loan có cuộc bầu cử Tổng thống dân chủ, lần đầu tiên theo thể thức phổ thông đầu phiếu, và dù có bị Bắc Kinh uy hiếp, người dân vẫn đội bom đi bầu và Lý Đăng Huy, người bản địa thuộc Quốc dân đảng, là Tổng thống dân chủ đầu tiên của lịch sử Trung Hoa.

Nhưng Tiến sĩ Lý Đăng Huy cảm thông với ước mơ của dân bản địa, rồi vì có ý tiến tới việc ly khai mà ra khỏi Quốc dân đảng. Đảng Dân Tiến tiếp tục chiều hướng độc lập đó và gây khó khăn cho mọi người.

Đài Loan mà tuyên bố độc lập thì cả cái kiến trúc giả tạo “Nhất quốc Lưỡng chế” – một nước Trung Hoa hai chế độ - sẽ sụp đổ. Bắc Kinh, Hoa Kỳ và Quốc dân đảng đều không muốn vậy. Sau hai nhiệm kỳ Tổng thống của Trần Thủy Biển thuộc đảng Dân Tiến (2000-2008), Quốc dân đảng thắng cử và Tổng thống Mã Anh Cửu đảo ngược lập trường, có chánh sách hợp tác khắng khít hơn với Bắc Kinh.

Kết quả cũng lại là một sự đảo lộn.

Bắc Kinh không hề thay đổi, gây ra vụ khủng hoảng tại Hong Kong khiến dân Đài Loan thấy ra thân phận của mình nếu được “hồi quy cố quốc” như Hong Kong từ năm 1997. Họ không tin vào lời đường mật của Bắc Kinh và Quốc dân đảng sắp đại bại trong cuộc bầu cử vì mối giao duyên với Trung Quốc.

Trong chuỗi biến động dằng dặc này – 70 năm thì cũng đủ dài – Hoa Kỳ nghĩ sao về những đảo điên lập trường của mình trong một thế giới quá phức tạp? 


*

Quá trẻ để có thể suy nghĩ chín chắn và nhìn ra những hậu qủa bất lường trong lịch sử. Nhưng cũng đủ già để thấy ra sự nông cạn của Roosevelt. Và nếu lãnh đạo Trung Quốc vẫn cho rằng Mao Trạch Đông được 70% tích cực và 30% tiêu cực lúc cuối đời thì các sử gia Mỹ cũng nên nhìn lại nhân vật vắng bóng trên khán đài thắng Nhật năm xưa: Tưởng Giới Thạch. Cũng theo bảng điểm 70/30?

Không phải ngẫu nhiên mà dân Đài Loan ngày nay lại thấy gần Nhật hơn Tầu! Họ giàu kinh nghiệm máu xương hơn dân Mỹ.

_____

Xin theo dõi chương trình "Bên Kia Màn Khói" mới nhất của Sàigòn TV về "Thế giới Hậu-Trung Quốc" qua mạch dẫn sau đây:

https://www.youtube.com/watch?v=fxuabJaRSgU



Thứ Tư, 2 tháng 9, 2015

Lườm Âm và Thầm Oán



Nguyễn-Xuân Nghĩa - Sống Ngày 150902
"Vùng Oanh Kích Tự Do"

Cậu bé Obama và con heo nái họ Tập 

 * Lại bị nó lừa rồi, hý họa của báo Mỹ *


Theo lẽ thường, người ta có thể ngó nghiêng để tỏ phản ứng. Người Bắc đanh đá gọi đó là “lườm”, khác với “nguýt” là nhìn với vẻ khiêu khích - mà thường thì chỉ khiêu khích ở đằng sau. Đấy là lẽ thường.


Trong thực tế của đời sống có thất tình lẫn lục dục – mười ba nỗi uẩn súc còn nặng hơn thập nhị nhân duyên – người ta có thể lườm thật mà cũng có thể… lườm giả. Nam giới nôm na thì chỉ biết trợn tròn con mắt, chứ phái đẹp mới có sự tinh tế mà, nói theo ngôn ngữ của các nhà văn đang tập văn chương Pháp, “ném cho một cái nhìn”. Khi họ ném cho một cái nhìn như cho một đóa hoa thì đấy là “lườm yêu”. Ai mà được cái lườm đó thì thấy là mình lên tiên.


Có lẽ đấy là tâm cảnh của Phan Khôi, khi cụ kết thúc bài “Tình Già” trong tiếng ngậm ngùi:
Hai mươi bốn năm sau
Tình cờ nơi đất khách gặp nhau!
Ðôi mái đầu đều bạc
Nếu chẳng quen lung, đố nhìn ra được!
Ôn chuyện cũ mà thôi.
Liếc đưa nhau đi rồi!
Con mắt còn có đuôi.


Người ta có thể đưa nhau đi bằng con mắt.


Nhưng đấy là ta vẫn chưa biết gì về phái nữ. Người tuyệt vời nhất còn biết nhắm mắt rồi mới ban cho một cái lườm yêu. Người viết này xin gọi đó là “lườm âm”. Chữ này thì phải trình tòa để bảo vệ tác quyền mới được! Đàn ông nôm na thô lỗ thì chỉ biết nhìn đến rách toạc mí mắt, chứ chẳng bao giờ nhận được một cái lườm âm như một diễm phúc.


Mấy ngón đê mê hạnh phúc vừa gõ đến đây, người viết lại bị làm rộn! Khách có kẻ trợn mắt hỏi gặng: “Thời sự đang nóng bỏng như vậy mà quan bác lại phiếm về con mắt mỹ nhân là thế nào?”

Lại nghĩa vụ lao động nữa! Mệt.


***


Chẳng là người viết này vừa so sánh Trung Quốc với một gã khổng lồ đang ngả bàn đèn, tức là lăn kềnh xuống đất.


Cái họa của anh khổng lồ này là bị bó chân, một phong tục dành cho phụ nữ trong các gia đình quý phái. Hủ tục man rợ ấy xuất phát từ đời Tống và kéo dài ngàn năm cho đến sau đời Thanh mới tạm chấm dứt. Rồi lại được lãnh đạo Bắc Kinh tái tục.


Lần này, cách mạng còn đi xa hơn, nên bó chân cả nước trong chế độ chuyên chính.


Vì vậy, Trung Quốc mới là một anh khổng lồ có một tỷ 350 triệu dân, mà lại bị bó chân nên sau ba chục năm “cải cách khai phóng” của Đặng Tiểu Bình, đã nằm ngang tầm cỏ khi đòi chạy đua với thiên hạ. Đảng và nhà nước bó chân người dân nên bó luôn cả cái đầu của mình. Những kẻ ngu ngơ lú lẫn ở Hà Nội mà nhìn qua Đài Loan thì có thể thấy người Hoa bay nhẩy ra sao với lợi tức đồng niên cao hơn gấp ba người dân Hoa lục.

Và dân Đài Loan còn có quyền cho Quốc dân đảng hít đất trong cuộc bầu cử tới đây mà xứ sở vẫn có lãnh đạo.


Khách có vẻ chưa hài lòng với cách lung khởi của người viết nên lại nốc thêm một chung rượu nữa, mới hỏi tiếp. Chuyện bó chân đàn bà ăn nhậu gì tới màn oanh kích kỳ này? - Có chứ! Nhưng món ăn ngon thì phải ninh cho nhừ…. Hãy cứ uống rượu mà phê – nhưng không được phán!


Cái nếp văn hóa khinh miệt phụ nữ là chứng tật thâm căn cố đế của nền văn minh Trung Hoa. Qua đời Trung Cộng nó vẫn còn di căn. Vậy mà chúng ta vừa thấy vài chuyện lạ.


Đầu năm 2012, trùm công an của thành phố Trùng Khánh là Vương Lập Quân đã vào Lãnh sự quán Hoa Kỳ tại Thành Đô để xin tỵ nạn chính trị. Giữa năm 2015, Thượng tướng Quách Bá Hùng, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị và Phó Chủ tịch Trung ương Quân ủy hội, bị điều tra về tội tham nhũng và hối mại quyền thế nên cũng tìm đường vượt biên.


Cả hai đều dùng "mỹ nhân kế", nhưng với màu sắc xã hội chủ nghĩa: người muốn vào và kẻ muốn ra đều giả làm đàn bà!

Không có gì đau hơn cho bậc trượng phu lẫm liệt ấy là khi phải mượn xiêm y của phường thấp kém để cầu sống. Ôi cái nhục khăn yếm làm ta nhớ tới Gia Cát Lượng. Nhưng vì bị bó chân nên dù có mặc váy họ đi vẫn không thoát. Nên đang tu chùa huyền. Là đang ngồi tù!


Khách ngồi bên đã có vẻ hả hê nên vật lộn với chai rượu. Nhờ vậy, người viết này mới điều chỉnh tác xạ. Pháo vào nơi khác.


***


Vấn đề của Trung Quốc ngày nay không phải là kinh tế.


Sau khi các thị trường chứng khoán và hối đoái đều theo nhau sụt ván thiên từ Tháng Bảy qua Tháng Tám, kinh tế xứ này sẽ hạ cánh nặng nề rồi trôi vào khủng hoảng tài chánh vì núi nợ ngất trời, cao bằng 28 ngàn tỷ đô la. Số tỷ này là khái niệm trừu tượng. Có nói là bằng một ngàn triệu thì cũng chẳng ai rõ là gì. Thôi thỉ đếm: nếu đặt một tỷ bạc toàn là giấy 100 xuống sàn mà đếm, và một giây đếm được hai tờ như các kiểm phiếu viên ngày xưa thì gần hai tháng không ăn không ngủ mới đếm xong. Và 28 ngàn tỷ thì còn lâu hơn nữa.


Vấn đề của Trung Quốc cũng chẳng là xã hội.


Từ ngày đầu của năm 2015 đến nay thì trung bình cứ ba tuần lại có một tai nạn bất ngờ. Lại gõ sai rồi! Tai nạn chết người mà chẳng bất ngờ. Từ dẫm đạp lên nhau mà chết như tại Bến Thượng Hải vào đêm Giao thừa Tây đến vụ nổ các kho hóa chất ở Thiên Tân vào ngày 12 Tháng Tám, ở giữa điểm xuyết bằng vụ du thuyền bị lật trên sông Dương Tử khiến 442 người thiệt mạng, v.v… cái chuỗi “nhân họa” ấy là truyện dài không đoạn kết về một xã hội mà nhà nước không có cái cáng cấp cứu nạn nhân mà thừa cái còng để nhúp bất cứ ai nói khác với đảng.


Từ hai chuyện kinh tế và xã hội ngút ngàn đó, nếu có mù thì cũng phải thấy rằng vấn đề của Trung Quốc là chính trị. Hệ thống lãnh đạo bị thị trường quật ngược mà bộ máy nhà nước chống đỡ không nổi. “Phàm thế cuộc trong thiên hạ, tan rồi lại hợp, hợp rồi lại tan”… Tam quốc chí Diễn nghĩa của La Quán Trung đã mở đầu như vậy. Chuyện hợp tan của Trung Quốc đang tái diễn?


Có một người dù chẳng đọc sách Tầu cũng nói như vậy. Đó là Tổng thống Barack Obama của Hoa Kỳ! Oai chưa?


***

Tháng Năm năm 2014, sau một bài diễn văn tại trường Võ Bị Quốc Gia West Point với trọng tâm trình bày đối sách ngoại giao của Hoa Kỳ, thì vào ngày 29, Tổng thống Obama có cuộc phỏng vấn dài với đài phát thanh National Public Radio về cùng đề tài. Dư luận Á Châu đặc biệt chú ý đến một lời phát biểu của Tổng thống Mỹ về Trung Quốc, khi ông được hỏi về an ninh Đông Á. Đó là "quyền lợi chiến lược của nước Mỹ có thể bị đe dọa nếu Trung Quốc tan ra từng mảng" và "đấy là điều Hoa Kỳ không muốn".


Tổng thống Hoa Kỳ dựa trên những sự kiện nào để nói về nguy cơ tan rã của Trung Quốc khi cả thế giới đang e ngại sức mạnh quân sự của nền kinh tế đứng hạng nhì thế giới?


Người ta không quên cách nay đúng một năm, tại phiên họp cấp cao lần thứ năm giữa hai quốc gia, gọi là "Diễn đàn Đối thoại về An ninh Chiến lược và Kinh tế", lần đầu tiên mà Tổng trưởng Ngân khố Mỹ lại khuyến cáo Trung Quốc ngay tại thủ đô Mỹ, rằng kinh tế Mỹ đã chấn chỉnh nền móng và có 40 tháng tăng trưởng, còn Trung Quốc phải tiến hành chuyển hướng để duy trì tăng trưởng bền vững hơn trong tương lai, qua nhiều cải thiện cơ bản về cấu trúc và chính sách.


Từ một giác độ khác, giới quan sát kinh tế nói đến nhu cầu tái cân bằng chiến lược phát triển khi một thế hệ mới lên lãnh đạo xứ này từ Đại hội đảng khóa 18 vào cuối Tháng 11 năm 2012. Một năm sau Đại hội, cấp lãnh đạo như Chủ tịch Tập Cận Bình đề ra hướng cải cách qua Nghị quyết Ba của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương khóa 18 vào cuối Tháng 11 năm 2013, và Thủ tướng Lý Khắc Cường qua bản báo cáo tại khóa họp Quốc hội vào đầu năm 2014.


Từ đó đến nay, Trung Quốc chưa chuyển hướng như đã đề ra. Ngược lại, Bắc Kinh tiếp tục nhiều biện pháp kích thích kinh tế để duy trì mức tăng trưởng theo chiều hướng bấp bênh cũ và vì vậy kinh tế xứ này khó thoát một vụ khủng hoảng.


Một năm sau, chúng ta đang tiến tới thời điểm khủng hoảng ấy.


Đấy là lúc thiên hạ phân vân. Khi nước Tầu có loạn vì nước toàn có lậu thì đệ nhất siêu cường Hoa Kỳ tính gì? Obama đã trả lời mà chẳng ai chịu nhớ: "Quyền lợi chiến lược của nước Mỹ có thể bị đe dọa nếu Trung Quốc tan ra từng mảng" - và "đấy là điều Hoa Kỳ không muốn".

Hoa Kỳ không muốn nhiều chuyện lắm mà cũng chẳng làm gì được. Với chính quyền Obama thì càng không làm gì được! Hãy nhìn thời sự thì biết. Vì vậy, Obama chỉ còn một cách là thầm oán khả năng chống đỡ quá tồi của Tập Cận Bình và tập đoàn bất tài vây quanh. Và ngồi trên đôi tay của mình. Vì thế, khi hội kiến Obama vào Tháng Chín, Tập Cận Bình sẽ lại diễn vở mỹ nhân kế với màu sắc xã hội chủ nghĩa Trung Huê. Như con heo nái, họ Tập sẽ ai oán học phép… lườm âm. Mà Obama không hiểu.

Đúng là Ô Ba Mao.