Hiển thị các bài đăng có nhãn Giải Ảo. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Giải Ảo. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 4 tháng 8, 2015

Dân Chủ: Đảng Của Dân Nghèo?

Vũ Linh - Việt Báo Ngày 150804

Đảng DC năm 1975 cũng mạnh mẽ chống đối TT Ford mở cửa tiếp nhận dân tỵ nạn....

* Một nhân vật Dân Chủ, thuộc loại giàu nhất, John Kerry, đang đái vào Hiến pháp Hoa Kỳ - Hý họa tuyệt vời của Michael Ramiorez trên tờ Investment Business Daily * 


Đảng Dân Chủ là đảng của dân nghèo, thiểu số, tỵ nạn,... Có thật vậy không? Cách đây khá lâu, cột báo này đã bàn qua những huyền thoại sai lầm về đảng Cộng Hoà (CH), để làm sáng tỏ vài quan điểm đã in sâu trong suy nghĩ của nhiều người, qua những rao rảng của TT Obama và truyền thông dòng chính.

Bây giờ, ta thử nhìn qua những huyền thoại chính về đảng Dân Chủ (DC).


DC LÀ ĐẢNG CỦA DÂN NGHÈO


Đây là hình ảnh quan trọng nhất, được nhiều người chấp nhận nhất. Nhưng cũng là sai lầm lớn nhất.

Trên căn bản, đúng là DC chủ trương giúp dân nghèo nhiều nhất, qua trợ cấp đủ loại. DC có chủ trương rất rộng rãi về trợ cấp, từ phiếu thực phẩm đến bảo hiểm y tế, trợ cấp đông con, tiền thất nghiệp, v.v...

Như đã nhiều lần bàn qua trên cột báo này, Nhà Nước Obama đã hãnh diện khoe số người lãnh Medicaid đạt được kỷ lục cao nhất xưa nay. Một kỷ lục mà nhiều người hoan hô, nhưng riêng kẻ viết này thấy là một... tin đáng buồn hơn vui. Đúng vậy, trách nhiệm của Nhà Nước là làm cho dân giàu nước mạnh, chứ không phải là cố làm sao cho càng nhiều người nghèo khổ, sống nhờ trợ cấp càng tốt.

Trợ cấp trong nhiều trường hợp là điều cần thiết, vì lý do nhân đạo, cũng như để tránh bất ổn xã hội, để giúp những người thiếu may mắn.

Nhưng trợ cấp cũng có mặt trái. Trợ cấp biến con người thành một thứ nô lệ tân thời, nô lệ của trợ cấp, nô lệ của đảng cầm quyền. Một khi dính vào tròng trợ cấp, khó thoát ra, và càng ngày càng lệ thuộc trợ cấp. Người lãnh trợ cấp đâm ra ỷ lại vào trợ cấp, mất dần ý chí tự lập. Mà một khi đã lệ thuộc vào trợ cấp thì sẽ mãi mãi phải vật lộn với mức chi tiêu trong vòng trợ cấp, có nghiã là sẽ luôn luôn nghèo túng, không bao giờ có cơ hội tiến thân vì trợ cấp chỉ giúp sống qua ngày, không bao giờ giúp leo lên bực thang xã hội.

Đó có phải là phương thuốc lý tưởng nhất để giúp dân nghèo không? Tuyệt đối không! Cách giúp dân nghèo đúng nhất là giúp họ thoát ra khỏi vòng nghèo túng chứ không phải giam hãm họ trong vòng trợ cấp.

Mà cách giúp hữu hiệu nhất là tạo công ăn việc làm qua tăng trưởng kinh tế, không phải qua tái phân phối lợi tức, tăng thuế tức là lấy tiền nhà giàu chia lại cho dân nghèo. Nói cách khác, cần làm cho cái bánh lớn ra, tất cả mọi người đều có phần lớn ra, thay vì cứ giữ cái bánh như cũ rồi lo chia phần cho đều hơn. Trách nhiệm của Nhà Nước là bảo đảm khi chiếc bánh lớn ra thì phần của mỗi người, nhất là phần của người nghèo cũng sẽ lớn ra, không bị mấy ông nhà giàu cưỡng chiếm mất.

Một điều nữa không nên quên. Trợ cấp không phải là cái vòi nước bất tận từ trên trời rơi xuống. Đó là tiền trong ngân sách quốc gia, lấy từ thuế hay vay mượn.

Nói trợ cấp có thể được tài trợ bằng tăng thuế nhà giàu, chỉ là nói vu vơ, không nhìn thấy thực tế của thế giới ngày nay. Trong cái thế giới này, không phải là có hai cái phòng có bốn bức tường ngăn cách hoàn toàn, một phòng cho dân giàu sống, một phòng cho dân nghèo, cả hai giới sống biệt lập, do đó, tăng thuế nhà giàu chẳng ảnh hưởng gì đến dân nghèo. Thực tế, cả hai giới sống lẫn lộn. Trong môi trường kinh tế liên đới hiện hữu, tăng thuế nhà giàu cũng là tăng thuế tất cả mọi người, vì mấy ông nhà giàu không dại gì chấp nhận tăng thuế mà không tìm cách chuyển lên đầu người nghèo và trung lưu, bằng cách tăng giá sản phẩm hay dịch vụ họ cung cấp cho thiên hạ, nghèo cũng như giàu. Tăng thuế ông đại gia Kroger sẽ đưa đến tăng giá thịt trong các tiệm Kroger, rồi tăng giá tô phở, và người lãnh đủ cuối cùng là anh nhân công đi ăn phở.

Tài trợ các trợ cấp bằng vay mượn? Nước Mỹ hiện nay đã tích lũy gần 20.000 tỷ nợ. Cái nợ đó không trả năm nay, sẽ phải trả 10, 20, 30 năm nữa. Đời cha ăn mặn, đời con khát nước. Nếu nghĩ ăn mặn vẫn ngon hơn, khát nước là chuyện tụi con cháu, sao mình lại phải lo, thì đó có phải là suy nghĩ cho tương lai con cháu không? Nhìn vào gương Hy Lạp thì thấy ngay.

Trợ cấp đến một giới hạn nào đó là cần thiết và chính đáng. Quá mức đó thì cũng trở thành... một hình thức hối lộ, mua phiếu cử tri không hơn không kém.


DÂN CHỦ LÀ ĐẢNG CỦA DÂN LAO ĐỘNG


Một màn ảo thuật lớn của đảng DC là thống kê về tỷ lệ thất nghiệp.

Ở đây, phải nói lại cho rõ. Dân Mỹ được chia ra ba thành phần:

a) những người được tính trong thống kê lao động, là những người đang đi làm, và những người thất nghiệp nhưng đang ghi tên tìm việc làm;

b) những người bị loại khỏi thống kê lao động, vì không đi làm quá lâu hay không ghi tên đi tìm việc làm;

c) những người có lý do chính đáng không được kể là lao động như trẻ em, người già đã về hưu, quân nhân tại ngũ, tù nhân, và những người đang nằm nhà thương.

Thành phần (a) là thành phần dùng để tính thống kê về tỷ lệ thất nghiệp. Lấy một ví dụ dễ hiểu: tổng cộng thành phần (a) là 100 người, trong đó 90 người đang đi làm, 10 người không đi làm nhưng ghi danh lãnh tiền thất nghiệp hay tìm việc làm, và tỷ lệ thất nghiệp là 10/100 là 10%.

Sau một thời gian, có 4 người tìm việc không ra, hay làm biếng muốn nằm nhà không chịu đi tìm việc, hay nản chí không ghi tên tìm việc làm nữa. Họ bị loại ra khỏi (a), chuyển qua loại (b). Bây giờ thị trường lao động (a) còn lại 96 người, 90 đi làm như cũ, nhưng chỉ còn 6 thất nghiệp. Tỷ lệ thất nghiệp bây giờ là 6/96 là 6,2%.

Tỷ lệ thất nghiệp đã giảm từ 10% xuống 6,2% nhờ 4 người đã bị loại ra khỏi thị trường lao động, chuyển qua thành phần (b).

Đó chính là thành quả giảm tỷ lệ thất nghiệp từ 10% xuống 6% mà TT Obama đang khoe. Tỷ lệ giảm vì số người thất nghiệp quá lâu chứ chưa hẳn là do Nhà Nước tạo được việc làm cho dân. Bằng chứng cụ thể nhất là con số người bị loại khỏi thống kê lao động (a) chuyển qua (b) lên đến con số kỷ lục 93 triệu người, một phần ba tổng số dân Mỹ. Nhà Nước Obama và truyền thông phe ta rầm rộ khoe thành tích giảm tỷ lệ thất nghiệp, nhưng im re về số người rơi vào khối (b), chỉ vì đa số thiên hạ không hiểu rõ cách tính thống kê của Nhà Nước mà thôi.

Theo Gallup, năm 2013, vì Obamacare, một nửa số doanh nghiệp tiểu thương đã đóng băng không thuê thêm nhân viên, trong khi một phần năm doanh nghiệp đã sa thải nhân viên. Năm 2014 là năm đầu tiên trong lịch sử Mỹ mà số doanh nghiệp tiểu thương đóng cửa cao hơn số doanh nghiệp mở cửa.

Nói trắng ra, đảng DC không lo âu chuyện thất nghiệp. Chẳng những không phải ưu tiên, mà càng nhiều người thất nghiệp càng tốt vì họ sẽ phải lệ thuộc vào trợ cấp, bắt buộc phải bỏ phiếu cho DC.

DC là đảng cổ võ cho nghiệp đoàn vì nghiệp đoàn bảo vệ quyền lợi nhân công. Chỉ tiếc là coi vậy chứ chưa chắc đã là vậy.

Những người tỵ nạn từ bốn thập niên trước hẳn còn nhớ hai hãng máy bay lớn nhất Mỹ thời đó là Pan American Airlines và Eastern Airlines. Rất nhiều dân tỵ nạn thời mới qua, những năm sau 75, đã làm việc cho hai hãng đó. Cả hai hãng đều đã không còn nữa. Phá sản dưới thời TT Carter, tất cả nhân công bị sa thải hết, hàng trăm ngàn người bị thất nghiệp khi đó. Tại sao? Xin thưa hai công ty đó phá sản vì chi phí lương nhân viên quá cao, khiến họ không thể cạnh tranh được với mấy hãng máy bay mới và các hãng máy bay ngoại quốc. Lương cao là do kết quả tranh đấu của nghiệp đoàn. Như vậy nhìn cho kỹ, nghiệp đoàn chỉ có lợi ngắn hạn, theo quan điểm rất thiển cận, nhưng đưa đến thảm hoạ trong đường dài.

Kỹ nghệ xe hơi của Mỹ cũng ở trong tình trạng tương tự. Không cạnh tranh nổi với Nhật, Hàn Quốc, và Âu Châu vì lương nhân công quá cao. Đáng lẽ đã sập tiệm nếu không có TT Bush và TT Obama bơm tiền vào cứu, và Chrysler bị bán cho Ý.

Tại Mỹ, có 22 tiểu bang có luật không cho nghiệp đoàn ép nhân công phải gia nhập, và 28 tiểu bang, phần lớn là tiểu bang theo DC, như New York và Cali, có luật bắt ép này. Trong 10 năm qua, 22 tiểu bang không có luật bắt ép gia nhập nghiệp đoàn đã tạo ra 3,6 triệu việc làm, 28 tiểu bang có luật đó chỉ tạo được tổng cộng 0,9 triệu việc làm. Có nghiã là chỗ nào có nghiệp đoàn, chỗ đó nhân công khó kiếm việc làm hơn nhiều.

Những nghiệp đoàn cũng đang tranh đấu đòi tăng lương tối thiểu lên tới 15 đô, và được bà Hillary và đảng Dân Chủ ủng hộ trong khi Cộng Hòa chống đối. Ở đây vấn đề phải nhìn cho kỹ.

Đối với những đại công ty như Wal-Mart (mà bà Hillary trước đây là thành viên Hội Đồng Quản Trị) mà các vị chủ tịch, tổng giám đốc lãnh lương bạc triệu hay chục triệu trong khi một số lớn mấy người bán hàng chỉ được làm bán thời, lãnh lương chết đói mà không có quyền lợi gì như bảo hiểm y tế, nghỉ thường niên,... thì việc tăng lương tối thiểu cho nhân công là chuyện đáng làm và cần làm.

Nhưng đối với hàng triệu cơ sở kinh doanh tiểu và trung thương, tăng lương tối thiểu sẽ giết chết họ. Như cột báo này đã viết nhiều lần, thử hỏi ông chủ tiệm phở tại khu Bolsa, nếu bị bắt phải tăng lương tối thiểu lên 15 đô một giờ cho những người chạy bàn thì ông sẽ phản ứng như thế nào? Vui vẻ tăng lương họ để rồi lỗ lã, phá sản? Hay là sa thải họ để đi thuê dân Mễ ở lậu, trả lương rẻ hơn? Như vậy tăng lương tối thiểu có giúp cho dân lao động tiểu thương không? Hiển nhiên là không. Thay vì lương được lên 15 đô, họ sẽ mất job. Đó là quy luật kinh tế.

Cựu tổng giám đốc chuỗi nhà hàng McDonald khẳng định tăng lương tối thiểu lên 15 đô sẽ giết toàn bộ hệ thống McDonald. Ai cũng biết đây là hệ thống các tiệm ăn nhỏ được hưởng quyền đặc nhượng của McDonald, thường chỉ có một tá nhân viên, phần lớn là giới trẻ, học sinh lãnh lương tối thiểu.

Thành phố Seattle tăng lương tối thiểu lên 15 đô. Kết quả tức thời là hàng loạt nhân viên xin làm ít giờ hơn để còn có thể lãnh lương ít, trong mức xin được trợ cấp. Một khiá cạnh khác rất tai hại của trợ cấp: giảm năng xuất kinh tế cả nước.

Quý độc giả đừng hiểu lầm là kẻ viết này chủ trương cho dân lao động lãnh lương tối thiểu chết đói mãn đời. Kẻ tỵ nạn này khi mới qua Mỹ đã lãnh lương 80 đô một tuần trong nhiều năm. Vấn đề là tăng lương tối thiểu không phải là giải pháp, chỉ có tăng trưởng kinh tế mới giúp mọi người khá hơn. Có tăng trưởng kinh tế thì tự động sẽ có tăng lương. Không có tăng trưởng mà chỉ muốn tăng lương thì mọi người sẽ mất việc.

Chính sách kinh tế của TT Obama là một chính sách chú tâm vào tái phân chia tài sản theo mô thức “công bằng” xã hội chủ nghiã, không chú tâm vào phát triển kinh tế. Theo thông báo chính thức, tăng trưởng kinh tế của Mỹ trong tam cá nguyệt đầu của 2015 là -0.7% (dấu âm, tức là suy giảm). Nói chung, trung bình tăng trưởng trong tam cá nguyệt đầu trong bảy năm từ 2009, khi TT Obama mới nhậm chức, là 0.4%, một kỷ lục thấp nhất trong tất cả các tổng thống từ sau Thế Chiến II.

Trong cuộc tranh cử năm 2012, TT Obama tố giác đảng CH và TĐ Romney chủ trương ủng hộ các đại công ty mở hãng xưởng ở ngoài nước khiến nhân công Mỹ thất nghiệp. Nếu ta theo dõi tin báo chí, đã thấy trung tuần tháng Năm vừa qua, TT Obama vận động cho TPP (Hiệp Ước Hợp Tác Liên Thái Bình Dương), đã đi thăm trụ sở công ty Nike tại Oregon, nức nở ca tụng chính sách và sự thành công của Nike. Nike chỉ có 8.000 nhân viên ở Mỹ trong khi có hơn một triệu nhân công lãnh lương chết đói trong vùng Đông Nam Á (trong đó có Việt Nam). Chuyến viếng thăm của TT Obama làm sáng tỏ rất rõ quan điểm của ông đối với vấn đề các đại công ty mang job ra ngoài nước.


ĐẢNG DÂN CHỦ LÀ ĐẢNG CỦA DÂN DA MÀU


Đảng DC cũng chẳng phải là đảng của dân da màu. Nội chiến Nam Bắc Mỹ xẩy ra vì tổng thống CH Abraham Lincoln chủ trương hủy bỏ chế độ nô lệ da đen bị khối DC miền Nam nước Mỹ chống lại. Ngay cả cho đến thời các TT Kennedy và Johnson, lúc đầu cũng chống lại những tranh đấu của dân da đen đòi bình quyền. Cho đến khi miền Nam đại loạn, biểu tình, chống đối nổi lên khắp nơi dưới sự lãnh đạo của mục sư Martin Luther King thì TT Johnson mới nhượng bộ, ký luật nhân quyền, rồi đúng theo mô thức của chính trị gia, nhẩy ra vỗ ngực khoe công “giải phóng” dân da đen!

Ngày nay, DC là đảng được dân da màu ủng hộ thật, vì là đảng ban bố trợ cấp rộng rãi nhất lịch sử Mỹ. Bất cứ ông bà nào ra tranh cử với danh nghiã DC sẽ được dân da đen nhiệt liệt bầu ngay, chỉ vì trợ cấp.

Nhưng trong con mắt của các chính khách DC, dân da màu vẫn chỉ là công cụ cho họ giữ cái ghế thôi. Ngay cả TT Johnson khi ký các đạo luật nhân quyền cho dân da đen cũng vẫn gọi họ là “mấy tên mọi” – niggers!

Trong vấn đề di dân bất hợp pháp gốc La-tinh cũng vậy, tất cả chỉ là chuyện đếm phiếu không hơn không kém. DC hô hào hợp thức hoá họ, nhưng chỉ là… đánh võ miệng thôi.

Nếu ta tinh ý một chút, sẽ thấy DC là đảng giả dối nhất trong vấn đề này. Trong hai năm 2009-2010, DC nắm Toà Bạch Ốc, và kiểm soát một cách tuyệt đối cả Thượng viện lẫn Hạ viện, họ đã có thể ra luật ân xá toàn diện cả chục triệu di dân lậu. Nhưng họ không làm gì hết, cho đến khi CH chiếm đa số tại Hạ Viện năm 2010 thì mới ồn ào kêu gọi ân xá để lấy điểm với khối cử tri Mỹ gốc La-tinh.

Ngay cả TT Obama, ông cũng chỉ lấy quyết định hoãn trục xuất trong nhiệm kỳ hai, khi ông không còn phải ra tranh cử nữa. Nếu lấy quyết định trước bầu cử năm 2012 thì biết đâu chừng bây giờ ta đã có TT Romney rồi.

Những người nghĩ rằng DC giàu lòng nhân đạo, lo cho di dân lậu chỉ là những nạn nhân ngây ngô nhất của chính trị Mỹ, vì đã không nhìn thấy giá trị của 10 triệu lá phiếu của di dân nếu được hợp pháp hoá.


ĐẢNG DÂN CHỦ LÀ BẠN CỦA DÂN TỴ NẠN


Đây là lập luận của những ông bà tỵ nạn Việt ủng hộ đảng DC. Nhưng nhìn lại cho kỹ, coi dzậy mà hổng phải dzậy đâu.

Trước tiên, đảng DC là đảng đã bức tử Nam VN, sau khi thanh toán TT Diệm để áp đặt lính Mỹ vào Miền Nam mà vẫn thua VC, ép TT Nixon phải bỏ chúng ta, qua hàng loạt biện pháp khoá tay TT Nixon, cấm “bành trướng” chiến tranh qua CămPuChia và Lào, cắt giảm ngân sách, cắt giảm viện trợ quân sự cho Nam VN,... Chuyện “Nixon bán đứng Nam VN cho bác Mao” chỉ là chuyện đổ thừa chạy tội không có căn bản cũng chẳng hợp tình hay hợp lý mà cột báo này đã bàn quá nhiều lần.

Đảng DC năm 1975 cũng mạnh mẽ chống đối TT Ford mở cửa tiếp nhận dân tỵ nạn, trong đó có ba tiếng nói mạnh nhất là Jerry Brown, đương kim Thống Đốc Cali, John Kerry, đương kim Ngoại Trưởng, và Joe Biden, đương kim Phó Tổng Thống.

Năm 1978 khi hàng triệu quân cán chính miền Nam còn chết dở sống dở trong tù cải tạo, TT Carter gửi một phái đoàn qua Hà Nội thảo luận việc bỏ cấm vận và thiết lập bang giao nếu VC giúp tìm xác lính Mỹ. VC khi đó đang khủng hoảng kinh tế, chuẩn bị đánh CămPuChia và đối phó với Trung Cộng, nên ra giá bắt TT Carter nhận tù cải tạo trong khi gián tiếp trục xuất hàng vạn thuyền nhân, để xả bớt gánh nặng kinh tế và ưu tư an ninh nội bộ. Những người nghĩ Carter đón nhận HO vì lý do nhân đạo chỉ là những người ngủ mơ.
Ưu tiên của TT Carter là xác lính Mỹ, không phải tù cải tạo Việt Nam. Câu chuyện bị gián đoạn vì CSVN đánh CămPuChia, và sau đó, các ông CH Reagan và Bush cha lên làm tổng thống. TT Clinton năm 1994 tiếp nối chính sách của TT Carter, bỏ cấm vận, nhìn nhận và trao đổi quan hệ ngoại giao với CSVN. TT Obama hiện đang cố thân thiện tối đa với CSVN, phá lệ, trịnh trọng đón Tổng Bí Thư đảng CSVN tại Tòa Bạch Ốc, rồi gửi đại sứ Ted Osius đi gặp cộng đồng tỵ nạn tại San Jose, đeo huy hiệu cờ đỏ sao vàng, cấm treo cờ vàng trong hội trường, hô hào hòa hợp hòa giải với CSVN.

Nói tóm lại, tất cả những chuyện Dân Chủ là đảng của dân nghèo, lao động, di dân, da màu, tỵ nạn, v.v... chỉ là những huyền thoại do đảng Dân Chủ tạo ra, rồi được truyền thông phe ta quảng bá. Nguyên tắc chỉ đạo của nghệ thuật tuyên truyền là cho dù là một điều không đúng sự thật, nhưng nói mãi cũng sẽ có người tin, càng về lâu về dài càng nhiều người tin.

_____

Quý độc giả có thể liên lạc với tác giả để góp ý qua email: Vulinh11@gmail.com. Bài của tác giả được đăng trên Việt Báo mỗi thứ Ba.

Dainamax xin thêm một tag, "Bài Viết Cho Những Người Ngu", ai giận thì tự xác nhận là đối tượng đáng quan tâm!

Thứ Tư, 3 tháng 6, 2015

Ước Lượng Rủi Ro Ngoài Đông Hải

Nguyên Lam & Nguyễn Xuân Nghĩa, RFA Ngày 150603
 
 
Hải quân Trung Quốc thao diễn trên biển Đông
Hải quân Trung Quốc thao diễn trên biển Đông Photo courtesy/chinanews 
 
 


Những biến cố dồn dập từ nhiều tháng qua trên vùng Thái Bình Dương đã khiến dư luận thế giới e ngại rủi ro đụng độ hoặc thậm chí xung đột trong khu vực. Nhìn từ giác độ kinh tế thì rủi ro ấy là những gì? Diễn đàn Kinh tế nêu câu hỏi với chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa về vấn đề này qua phần trao đổi sau đây của Nguyên Lam.

Nguyên Lam: Xin kính chào ông Nghĩa. Thưa ông, tình trạng căng thẳng tại khu vực Đông Hải của Việt Nam đã gây quan tâm cho nhiều quốc gia vì nơi đây là tuyến hải lưu cho phân nửa lượng hàng hóa giao dịch trên toàn cầu. Khi Trung Quốc ráo riết cải tạo các cụm đá ngầm thành đảo với trang bị quân sự và tuần qua công bố Sách Trắng về Quốc Phòng, nhiều người lo rằng xứ này đang bành trướng ảnh hưởng từ vùng biển cận duyên ra tới các đại dương, đã đe dọa chủ quyền trên lãnh thổ và lãnh hải của các lân bang và có thể cản trở quyền tự do lưu thông của các nước. Nhìn từ giác độ kinh tế, ông đánh giá thế nào về các rủi ro đó trong khu vực?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi xin đề nghị là ta nên lùi lại mà nhìn vấn đề trên toàn cảnh và trong viễn ảnh nhiều năm, may ra thì thấy được những rủi ro cho các nước, và trước nhất là rủi ro cho nước tác quái là Trung Quốc.

- Việc Bắc Kinh bành trướng ảnh hưởng qua nhiều hành động cụ thể mà bất chấp dư luận quốc tế không chỉ xảy ra từ 18 tháng nay, khi họ đòi kiểm soát một khu vực còn rộng lớn hơn biển Địa Trung Hải và trùm lên lãnh hải của nhiều lân bang. Việc họ xác nhận tư thế đại cường hải dương qua tài liệu quốc phòng vừa công bố cũng không có gì là ngạc nhiên. Bắc Kinh chuẩn bị điều ấy từ lâu và nay mới công khai hóa. Nhưng cũng vì vậy mà họ lấy nhiều rủi ro chúng ta cần thấy.

Nguyên Lam: Thưa ông, vì sao ông lại khởi sự với rủi ro của Trung Quốc do động thái vừa qua?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Vì nếu Trung Quốc tính ra rủi ro cho mình thì họ sẽ thận trọng hơn và bớt gây rủi ro cho các các khác.

- Nói chung, lịch sử nhân loại cho thấy rằng khi một cường quốc bành trướng ảnh hưởng và trở thành một đế quốc thì họ cũng mất một thời gian dài. Trung Quốc thật ra mới chỉ là một đại cường cấp vùng đang ngoi lên trình độ ấy và cố vươn từ vị trí cường quốc lục địa ngày xưa lên vị trí cường quốc hải dương sau này. Lý do bành trướng là chưa khi nào kinh tế Trung Quốc lệ thuộc vào thế giới như vậy và ngày nay họ muốn dùng sức mạnh bảo vệ quyền lợi mà họ mơ ước sẽ là toàn cầu.

Vì dầu khí, Bắc Kinh đã can thiệp vào Nam Sudan tại Châu Phi khi cung cấp võ khí cho chính quyền sở tại chống các nhóm phiến loạn. Hôm 22 vừa qua, họ phải di tản 400 nhân viên tại các giếng dầu của Nam Sudan. Nếu muốn bảo vệ quyền lợi tại đây, Bắc Kinh có thể gặp cảnh “khi vào húng hắng khi ra vội vàng!" Nguyễn-Xuân Nghĩa

- Vì vậy, rủi ro đầu tiên là phải can thiệp vào thiên hạ sự chứ không thể duy trì chính sách “không xen lấn vào nội tình của xứ khác” như trước. Khi can thiệp như vậy thì Bắc Kinh phải chọn bạn mà cũng vì thế lại dễ gây thù, chứ không thể ung dung mua chuộc mọi xứ bằng tấm chi phiếu. Trung Quốc lấy rủi ro lớn khi xỏ chân vào đôi giày quá rộng của một siêu cường toàn cầu như Hoa Kỳ. Tức là sẽ liên can vào nhiều chuyện bất ngờ không thể tính trước, kể cả nạn kiều dân bị bắt làm con tin hay bị khủng bố chặt đầu như Hoa Kỳ hay Nhật Bản đã từng bị.

Nguyên Lam: Ông có thể nào nêu thí dụ cụ thể về rủi ro can dự mà Trung Quốc sẽ gặp hay chăng?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Ta cứ chú ý vào tình hình Đông Hải nên quên là vì dầu khí, Bắc Kinh đã can thiệp vào Nam Sudan tại Châu Phi khi cung cấp võ khí cho chính quyền sở tại chống các nhóm phiến loạn. Hôm 22 vừa qua, họ phải di tản 400 nhân viên tại các giếng dầu của Nam Sudan. Nếu muốn bảo vệ quyền lợi tại đây, Bắc Kinh có thể gặp cảnh “khi vào húng hắng khi ra vội vàng”!


Hàng không mẫu hạm USS George Washington hoạt đông trên Thái Bình Dương
Hàng không mẫu hạm USS George Washington hoạt đông trên Thái Bình Dương



- Một thí dụ khác là tình hình vùng Vịnh Ba Tư với nội chiến tại Yemen, tranh chấp giữa hai nước có dầu là Iran với Á Rập Saudi, hoặc sự tung hoành của lực lượng khủng bố xưng danh Nhà nước Hồi giáo. Ngay hiện tại, Trung Quốc đã bị các tổ chức khủng bố Hồi giáo, từ al-Qaeda tới ISIL, quậy phá đất Tân Cương. Nếu can dự vào Trung Đông để bảo vệ nguồn năng lượng, Trung Quốc càng là đối tượng được các nhóm khủng bố tấn công trong lãnh thổ tại miền Tây và trên Con Đường Tơ Lụa mà họ đang muốn thực hiện. Vài năm nữa thôi, người ta sẽ thấy ra chuyện đó.

Nguyên Lam: Quả thật là ông nêu ra vài chuyện bất ngờ, nhưng ngay tại khu vực Thái Bình Dương, Trung Quốc còn gặp rủi ro nào khác chăng?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Mọi cường quốc muốn thành Đế quốc, là giấc mơ ngày nay của lãnh đạo Bắc Kinh, đều gặp bài toán tôi xin gọi tắt là “tiếp liệu” cho đơn giản. Từ Trung Nguyên tại miền Đông, các Hoàng đế Trung Hoa mà muốn kiểm soát Tây Vực và khống chế Trung Á đều căng mỏng phương tiện nên khó tiếp vận, rồi trung ương còn bị nạn cát cứ ở vùng biên trấn. Mà thôn tính được vùng nào thì cũng nuốt vào bụng sự chống đối của các sắc tộc đã bị họ khuất phục. Đó là hiện tượng từng thấy ở nhiều nơi, tại nhiều xứ, kể cả Liên bang Xô viết hay Liên bang Nga.

Hiện tại, Trung Quốc đã bị các tổ chức khủng bố Hồi giáo, từ al-Qaeda tới ISIL, quậy phá đất Tân Cương. Nếu can dự vào Trung Đông để bảo vệ nguồn năng lượng, Trung Quốc càng là đối tượng được các nhóm khủng bố tấn công trong lãnh thổ tại miền Tây và trên Con Đường Tơ Lụa. - Nguyễn-Xuân Nghĩa

- Trở về Thái Bình Dương thi càng vươn ra biển xanh dương, Bắc Kinh càng kéo dài đường tiếp vận từ bên trong cho các đơn vị Không quân và Hải quân ở ngoài khơi và sẽ bị tốn kém rất cao. Nếu lại muốn lập ra hệ thống nhận diện phòng không ADIZ trên các vùng họ vừ chiếm đóng thì đụng vào hệ thống phòng không của xứ khác, thí dụ như Nhật Bản. Xứ Nhật có hệ thống nhận diện phòng không rất gần với lãnh thổ và căn cứ Nhật, vả lại dân Nhật không có đất lùi như dân Tầu nên chắc chắn là họ sẽ quyết liệt bảo vệ. Đấy là một rủi ro nữa.

- Cho nên, chẳng dàn ra thì thôi, nếu dàn trận tuyến mà không có khả năng bảo vệ thì lãnh đạo Bắc Kinh làm chính người dân của họ thất vọng vì dân Tầu cứ được tuyên truyền về sức mạnh của quốc gia. Thật ra, để bù vào khó khăn kinh tế, đảng Cộng sản khích động tinh thần dân tộc cho quần chúng thêm tự hào về chuyện ảo. Quần chúng và quân đội mà thất vọng vì khả năng chống trả có giới hạn thì đảng lâm nguy như nhà Mãn Thanh đã từng bị trước khi sụp đổ. Đây là ta chưa nói đến rủi ro ở nơi xa hơn, như tại Ấn Độ Dương, hay cả rủi ro với Hoa Kỳ.

Nguyên Lam: Hầu hết dư luận đều chú ý đến kịch bản đụng chạm về quyền lợi hay đụng độ võ trang vì tai nạn bất ngờ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Ông nghĩ sao về loại rủi ro đó?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Vì tưởng Hoa Kỳ đang phân vân do dự giữa hai ngả công thủ sau khi quá mệt mỏi với chiến tranh và bất ổn ở ngoài, lãnh đạo Bắc Kinh mới thừa cơ bành trướng quân sự và cho rằng ít bị rủi ro lâm chiến với Mỹ. Tôi thiển nghĩ là lý luận ấy có vẻ có cơ sở vì vài lý do.

- Thứ nhất, sau khi Chính quyền Barack Obama nói đến việc chuyển trục về Đông Á từ năm 2011, với tiêu chí là sẽ đưa 60% các chiến hạm của mình qua Thái Bình Dương từ nay đến năm 2020, thì ngay năm sau là 2012, Mỹ phải cắt ngân sách quốc phòng, kể cả số chiến hạm. Ngược lại, trong hai năm qua, Bắc Kinh đã hạ thủy nhiều chiến hạm nhất thế giới, với kết quả là tới năm 2020 Hoa Kỳ sẽ có 64 chiến hạn lẫn tầu ngầm trên biển Thái Bình, đối diện với tổng số của Trung Quốc là 248 đơn vị. Với tương quan lực lượng đó và nếu áp dụng chiến pháp gọi là “bất cân xứng” mà Bắc Kinh chủ trương thì họ nghĩ rằng tình hình không đến nỗi tệ cho mình. Tuy nhiên, chính là vì cân nhắc như vậy, Bắc Kinh càng lấy thêm nhiều rủi ro trong những năm tới.

- Trong khi đó, thực tế lại không là hỏa lực, số chiến hạm hay phương tiện võ trang của hai nước. Thực tế là thực lực kinh tế của hai quốc gia, với Hoa Kỳ vẫn giàu mạnh gấp bảy Trung Quốc nếu tính theo lợi tức bình quân một đầu người. Ngoài ra, về trình độ công nghệ và kinh nghiệm chiến trường thì Trung Quốc chẳng thể sánh được. Thứ nữa, thái độ khiêu khích của Bắc Kinh sẽ làm dân Mỹ xoay chuyển và muốn tìm lại vai trò tích cực hơn trong vài năm tới. Khi ấy ta chẳng nên quên rằng Mỹ đã từng tham chiến vì tinh thần chống lại chủ nghĩa thực dân đế quốc, là điều ăn khớp với động thái ngày nay của Trung Quốc. Sau cùng, Hoa Kỳ hiện có nhiều đồng minh hơn Trung Quốc mà Bắc Kinh càng hung hăng thì số đồng minh với Mỹ lại càng tăng. Đấy là một rủi ro có cấp số nhân vì nếu một đồng minh mà bị Tầu tấn công thì nhiều xứ khác sẽ có phản ứng.

Nguyên Lam: Thưa ông, nói về các đồng minh của Hoa Kỳ trong khu vực rộng lớn mà Bắc Kinh muốn bung ra thì ta  thấy có Nhật với nền kinh tế lớn thứ ba, Ấn Độ với nền kinh tế đứng thứ chín, Úc đứng hạng 12, Nam Hàn hạng thứ 13, tức là một vòng đai các quốc gia bán đảo hay quần đảo thuộc loại khá vững mạnh của địa cầu. Đấy có phải là một rủi ro khác cho Trung Quốc không?

Dù có một chủ trương “lý tài” là chỉ giao du vì quyền lợi, Trung Quốc vẫn có thể bị lôi vào những tranh chấp hay chiến tranh của xứ khác, với hậu quả dây chuyền. Và nếu chiến tranh bùng nổ thì trận địa sẽ ở gần lãnh thổ Trung Quốc mà ở xa Hoa Kỳ. Nguyễn-Xuân Nghĩa

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ rằng rủi ro lớn nhất chính là sự phân vân chần chờ ngày nay của Hoa Kỳ khiến Trung Quốc càng dễ phiêu lưu và làm các quốc gia kể trên sớm liên kết với nhau.

- Họ liên kết với nhau trong tinh thần tương nhượng để chia sẻ gánh nặng kinh tế cho yêu cầu an ninh và sẽ nhìn vào kế hoạch “Con Đường Tơ Lụa” trên đất liền và trên biển của Bắc Kinh với cách lượng giá đầy tính nghi ngờ về an ninh hơn kinh tế. Rồi theo truyền thống cố hữu, Mỹ chần chờ và sẽ lại liên kết với các xứ đó, chưa kể một số nước trong Hiệp hội ASEAN. Sự thật thì chính là các quốc gia nói trên của Á Châu mới bị Trung Quốc hăm dọa nên sẵn sàng hợp tác với Mỹ.

- Cụ thể thì người ta đã thấy Nhật vừa ký kết hiệp ước phòng thủ mở rộng với Mỹ theo chủ ý tích cực với vai trò quân sự quan trọng hơn của Nhật vì lý do là bênh vực các đồng minh bị tấn công. Mới đây, Thủ tướng Shinzo Abe cũng hứa hẹn gia tăng đầu tư và viện trợ của Nhật cho các nước Đông Nam Á để tìm lại ảnh hưởng kinh tế năm xưa ở trong vùng. Cho nên, vấn đề không thu hẹp vào sự ganh đua hoặc tranh chấp giữa Mỹ và Tầu mà sẽ có sự tham dự của nhiều quốc gia khác. Tôi thiển nghĩ rằng hóa ra chính lãnh đạo Bắc Kinh mới lập ra vòng đai phòng thủ của cả chục quốc gia nằm trên con đường bành trướng của Trung Quốc.

Nguyên Lam: Tổng kết lại, thưa ông, có phải là Trung Quốc cứ khẳng định quyền bành trướng của họ mà lại gặp nhiều rủi ro chứ không dễ gì tác động như Bắc Kinh đã trù tính ban đầu?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thật ra, Bắc Kinh có quyền lợi và tham vọng cao quá khả năng quân sự. Tại các vùng đất xa xôi mà họ muốn vươn tới cho mục tiêu kinh tế thì bộ máy quân sự chưa theo kịp các dự án kinh tế nên những chọn lựa bạn thù hoặc quyết định can thiệp vào xứ khác vì quyền lợi kinh tế sẽ khiến Trung Quốc dễ bị tấn công hơn xưa, chưa nói đến nạn hải tặc hay khủng bố.

- Thứ hai, dù có một chủ trương “lý tài” là chỉ giao du vì quyền lợi, Trung Quốc vẫn có thể bị lôi  vào những tranh chấp hay chiến tranh của xứ khác, với hậu quả dây chuyền. Và nếu chiến tranh bùng nổ thì trận địa sẽ ở gần lãnh thổ Trung Quốc mà ở xa Hoa Kỳ. Vì kinh tế Tầu bị lệ thuộc bên ngoài hơn là kinh tế Mỹ, tổn thất cho Trung Quốc sẽ rất cao và kết cuộc thì Hoa Kỳ còn mạnh hơn trước, như người ta đã thấy sau hai Thế chiến của thế kỷ 20. Nếu Trung Quốc lượng giá lại như vậy thì may ra họ sẽ bớt hung hăng và thế giới bớt gặp rủi ro. Nếu không, sau chiến tranh bất ngờ, thì khủng hoảng kinh tế và chính trị sẽ đẩy lui Trung Quốc vào sự tàn tạ của thế kỷ 19.

Nguyên Lam: Xin cảm tạ ông Nghĩa về phần nhận định độc đáo này.

Thứ Tư, 20 tháng 5, 2015

Đê Mê Các Tướng



Nguyễn-Xuân Nghĩa - Sống 150519
"Vùng Oanh Kích Tự Do"

Khi Tổng Thống Văng Tục….  

 
* Tổng thống Lyndon B. Johnson *




















Người viết này giao du với một “câu lạc bộ tự phát” gồm một số học giả và giáo sư Mỹ có chung mối quan tâm là cuộc chiến Việt Nam. Nhiều người trong số này từng phục vụ tại Việt Nam và nay là giáo sư Đại học hay giảng sư trong các trường Võ Bị Hoa Kỳ. Một số là dân kỳ cựu về Á châu hoặc đã viết sách về chuyện Việt Nam. Người viết còn thành thật khai báo rằng năm năm trước đã mời bốn chuyên gia trong số này đến Quận Cam để trình bày quan điểm của họ về cuộc chiến kết thúc 35 năm trước.

Nói vắn tắt, cái “cờ lờ bờ” này thường xuyên trao đổi với nhau những tin tức hay lý giải về chuyện xưa để tìm lại sự thật. Thế rồi tuần qua, một vấn đề xa lắc lại được họ hâm nóng.

Đó là một cuộc họp không còn dấu tích trong hồ sơ chính thức, mà chắc chắn là đã có do sự xác nhận của những “người trong cuộc”, là một số tướng lãnh Hoa Kỳ.

Chuyện ấy chẳng có gì là bí mật nên khách ngồi bên được đọc ké… trước độc giả. Với điều kiện là không xâm phạm vào chai Cô Nhắc treo lơ lửng trên đầu, theo lời nguyện của người viết với trẻ nhỏ trong nhà!


*


“Tổng thống sẽ tiếp quý ông vào lúc hai giờ”…

Câu chuyện khởi đầu như vậy. Không - gõ sai rồi! Câu chuyện 1975 khởi đầu như vậy, khoảng 10 năm trước đó, vào năm 1965.

Tổng thống đây là Lyndon B. Johnson của Hoa Kỳ. Được diện kiến Tổng thống là bốn tướng trong Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, Joint Chiefs of Staff, Mỹ hay viết tắt là JCS.

Cầm đầu là Chủ tịch Hội đồng, Đại tướng Earle Wheeler, cùng Đại tướng Harold Johnson Tham mưu trưởng Lục quân, Đại tướng John P. McConnell Tham mưu trưởng Không quân, Đại tướng Wallace M. Green của Thủy quân Lục chiến, và Đô đốc David McDonald của Hải quân. Vào thời ấy, đấy là bốn người cao cấp nhất Quân lực Hoa Kỳ, có trách nhiệm chỉ huy quân đội ở dưới và ở trên thì làm tham mưu cho Tổng trưởng Quốc phòng và Tổng thống.

Trong cuộc gặp gỡ, có Trung tá Thủy quân Lục chiến Charles Cooper, vừa từ chiến trường Việt Nam trở về, được đi cùng Đô đốc McDonald với tấm bản đồ chuẩn bị cho cuộc họp.

Sau này, ông Cooper lên tới cấp Thiếu tướng. Khi về hưu thì viết cuốn hồi ký “Cheers and Tears: A Marine's Story of Combat in Peace and War”, xuất bản năm 2002. Câu chuyện năm xưa được ông dẫn vào sách, và được ngần ấy viên tướng xác nhận.

Lý do là họ lo lắng.

Các đơn vị tác chiến Hoa Kỳ vừa được tung vào chiến trường Việt Nam từ Tháng Ba, và các tư lệnh không biết rằng giới lãnh đạo dân sự, từ Tổng thống Johnson ở trên đến Tổng trưởng Quốc phòng Robert Strange McNamara ở dưới và Nội các Hoa Kỳ muốn đưa cuộc chiến về đâu.

Trong hệ thống quân giai của một xứ dân chủ như Hoa Kỳ, lãnh đạo là do dân bầu lên. Các tướng cùng quân đội chỉ thừa hành mệnh lệnh của thượng cấp sau khi nêu ý kiến với tính cách tham mưu, cố vấn, nếu được lãnh đạo hỏi ý. Những trường hợp người hùng áo kaki nổi đóa với thượng cấp áo trắng, như Thống tướng năm sao Douglas MacArthur với Tổng thống Harry Truman, chỉ chứng minh sức mạnh của nền dân chủ: lãnh đạo quân đội là bậc dân cử tối cao, chứ sao nào thì cũng chỉ là sao sẹt! 

Có ai đó bên Pháp đã dạy, rằng chiến tranh là chuyện quá hệ trọng để giao cho các tướng. Quả nhiên là lời khuyên công hiệu, nên Pháp mới tưng bừng thất trận! Nhưng xin trở lại chuyện Mỹ.

Vào thời điểm ấy, 12 năm sau Chiến tranh Cao Ly, Hoa Kỳ vừa mở ra một chiến trường mới tại Á châu. Đối phương lần này là Bắc Việt Cộng sản. Đằng sau có Liên bang Xô viết và Trung Cộng với mấy chữ vàng như “nghĩa vụ quốc tế” để giúp miền Bắc “giải phóng dân tộc” bằng cách tấn công miền Nam. Nghĩa là đằng sau Hà Nội là “cố nhân” Nga Tầu của các tướng lãnh Mỹ, xưa kia đã từng phục vụ trong Thế chiến II tại Âu châu và Á châu. Gần đây thì họ chưa quên việc Giải phóng quân của Bắc Kinh là “chí nguyện quân” tràn vào cấp cứu Bắc Hàn Cộng sản cho tới Hiệp ước Ngưng bắn năm 1953.

Họ không quên lời Thống tướng MacArthur cho Tổng thống John Kennedy năm 1961 là không nên xây dựng lực lượng quân sự tại Việt Nam mà phải chú ý đến nội tình Việt Nam. Họ càng không quên lời một Thống tướng sau này là Tổng thống Eisenhower: tránh đổ quân vào Châu Á.

Lần này, Hoa Kỳ lại vừa đổ quân và các tướng lãnh phân vân.

Liên Xô sẽ làm gì khi đồng chí cộng sản ở Hà Nội bị tấn công? Gần hơn cả, Trung Cộng sẽ làm gì nếu đường tiếp vận cho Hà Nội bị gián đoạn? Họ sẽ tái diễn Chiến tranh Cao Ly tại Đông Bắc Á bằng cách đổ quân vào một xứ Đông Nam Á? Hay là đứng ngoài giám trận, xem cái xứ Việt Nam rất nghi ngờ Trung Quốc từ ngàn xưa sẽ xoay trở ra sao?

Vể những thắc mắc ấy, hệ thống quân báo của các binh chủng đều lượng định rằng hậu phương Nga Hoa sẽ không nhập trận. Có tin được không? Hỏi Trung ương Tình báo CIA thì họ còn mơ hồ hơn nữa. Báo cáo của CIA là một chuỗi văn chương tuyệt mật mà vô dụng - vì không có kết luận gì trừ một điểm: không biết được phản ứng của Liên Xô và Trung Cộng! Có gì là mới đâu….

Vì vậy, năm 1965, khi một cuộc chiến mới lại vừa mở ra, Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ đã ra sức nghiên cứu lại và mọi người đều đồng ý với kết luận: 1) rủi ro đụng trận với Liên Xô và Trung Cộng là thấp và chấp nhận được – nguyên bản là “acceptably low” - với điều kiện là 2) phải sớm có hành động quyết liệt với Hà Nội để Mỹ khỏi đổ quân nhập trận.

Khốn nỗi, Tổng trưởng Quốc phòng McNamara và đám cố vấn dân sự, toàn là nít nôi uyên bác - “whiz kids” - lại chủ trương khác. Họ muốn tung quân vào trận địa mà không hiểu gì về hậu quả. Vì các cuộc thảo luận giữa những người cầm quân và kẻ ra lệnh ở trên chẳng đi tới đâu, các tướng mới xin được gặp riêng vị Tư lệnh Tối cao là Tổng thống để trình bày quan điểm của họ.  McNamara trả lời: Xin cứ tự nhiên!

Sau khi trình lên lời thỉnh nguyện, các tướng được biết Tổng thống Johnson sẽ tiếp kiến vào lúc hai giờ tại Phòng Bầu Dục.


*


Trung tá Thủy quân Lục chiến Charles Cooper được lệnh thượng cấp đem theo bản đồ để giải trình ý kiến của Hội đồng Tham mưu trưởng: xin đề nghị là không nên đổ quân vào Việt Nam, mà nên dùng thủy lôi phong tỏa các hải cảng, nhất là Hải Phòng, và oanh tạc Hà Nội cùng các đường tiếp vận của khối cộng sản.

Ông kể lại từng chi tiết của cuộc gặp gỡ lịch sử này. Ai đứng đâu, phát biểu những gì….

Lịch sử nhất là vẻ ôn tồn nhã nhặn ban đầu của vị Tổng thống cao gần thước chín, hình như là vừa qua một cuộc giải phẫu túi mật và lầu bầu khoe sẹo với mọi người về nỗi đau như của một nàng công chúa vừa bị đứt tay. Rồi đến phần trình bày tường tận và thống nhất của các tướng lãnh, trước hết là Đại tướng Wheeler rồi Đô đốc McDonald, rồi Đại tướng McConnell….


 Tổng trưởng Quốc phòng Robert S. McNamara



Vì không được tổng thống mời ngồi nên họ cứ phải đứng quanh mà phát biểu. Cái dàn gỗ theo bản đồ minh diễn như Tùy viên Quân sự của Tổng thống đã hứa cũng chẳng có nên Trung tá Coopers tự giang tay như trời trồng làm cái giá cắm bài.

Và viên Trung tá thiếu điều để rơi tấm bản đồ vì kinh ngạc trước phản ứng của Tổng thống Johnson.  Sau khi im lặng nghe, Johnson đột nhiên văng ra những chữ mà Thủy quân Lục chiến với nhau cũng ít dám dùng!

Khách nhớ thời quân ngũ xa xưa nên xoa đầu khoái trá: gã Johnson này đúng là cao bồi Tếch-xịt!

Phải viết bài cho độc giả thì mình nhớ nàng Hồ Xuân Hương. Hay cái thuật nói lái để tránh nói tục.

Chẳng hạn như cao điệu hơn, ta có chữ “ái ân với thân mẫu” lại có vẻ văn học để khỏi dùng chữ Đê Em. Hay động từ “diện kiến mẫu thân” có dáng văn minh hơn chữ “thấy mẹ”…. Chỉ vì hôm đó, những danh từ về cửa hậu của thân thể, về cặn bã của ruột gan, nôm na là cứt đái, hay động từ F chỉ hành động giao cấu, đã từ miệng của Tổng thống Mỹ bay ra như bướm trong Phòng Bầu Dục.

Tổng thống Lyndon Johnson lộ con người thật là kẻ vô giáo dục và dùng thậm từ mạt sát từng người sau khi lần lượt hỏi ý kiến của họ. Câu kết luận của ông là: “Cút hết!”

Đấy là các sĩ quan đã phục vụ Tổ quốc từ nhiều thập niên trên ba chiến trường để lên tới vị trí cao nhất trong quân đội. Lên tướng là phải có sự phê chuẩn của Thượng viện. Và ý kiến chuyên môn của họ được lãnh đạo đón nhận như vậy, với những lời nhục mạ.

Có lẽ vì thế mà chẳng ai được đọc trong thư khố của Phủ Tổng thống hay Ngũ Giác Đài một ghi chép nào về cuộc họp này. Có người còn phỏng đoán rằng chính McNamara đã báo trước cho Johnson về ý kiến của quân đội nên họ mới cố tình dàn trận như vậy!

Chuyện sau này là lịch sử.

Johnson cùng đám trí thức do cậu ấm John Kennedy để lại đã lao vào Việt Nam rồi từng bước leo thang chiến tranh cho tới khi tuột thang đi xuống. Tám năm sau, Tổng thống Richard Nixon mới áp dụng đề nghị năm xưa với kết quả không ngờ. Nhưng lòng dân đã đổi - Hoa Kỳ thất trận thê thảm. Và Hà Nội được thể nói phét đến xủi bọt Đông Hải rồi nay lại nháy nhó với Mỹ đế.

Mãi sau này, 30 năm sau, 1995, McNamara mới công nhận rằng mình lầm. Mẹ kiếp!


*


Nhìn sang bên cạnh, khách đã buông tiếng Đê Mê.

Thứ Tư, 29 tháng 4, 2015

Nghệ Thuật Nhờ Người - Toàn Cầu Nhần



Nguyễn-Xuân Nghĩa - Sống Ngày 150430
"Vùng Oanh Kích Tự Do"

Mỹ Đánh Toàn Cầu Hòa – Nên Tất Bại   

* Oai hùng lắm - nhưng không được đánh! *



Trong cõi mạt chược, gọi là một thú chơi tao nhã, xưa kia có một phép thắng rất khó, nếu “ù” thì được điểm lớn, đó là “toàn cầu nhần”. Chữ là “toàn cầu nhân”, toàn nhờ người, qua năm bước thì ngả ra ù. Cách thắng này hơi khó vì ba người còn lại trong canh bạc đều có thể biết từ bước thứ hai mà thủ - và không cho ăn nữa….

Trong cõi chiến tranh, gọi là trò chơi ác độc, lại có một phép đánh khác, gọi là “toàn cầu hòa”. 

Nhân chuyện 1.9.7.5., người viết xin lạm bàn về phép đó, và giải thích vì sao lại có biến cố 75.

Về chuyện quân sự, người viết chỉ có một biệt tài. Là xài súng nước. Ngoại giả, cứ thấy tiếng đạn bom thì dù chẳng là người nhái cũng tự biến thành thợ lặn. Thành thật khai báo như vậy rồi cho ra vẻ dún dường, xin được luận về chiến tranh!

Chẳng là vào một đêm Xuân thương nước nhớ nhà, người viết bốc một ông bạn đi thưởng thức các món nhậu bình dân của Nhật, bên mấy chai sake hâm nóng. Ngậm ngùi nhớ lại chuyện xưa, hai kẻ tha hương hàn huyên rằng vào ngày đó đằng ấy làm gì, tớ đang ở đâu…. Câu chuyện trầm buồn khiến mấy chung rượu Nhật cũng thành rượu nhạt – vì hòa trong nước mắt.  

Bên người bạn mũ đỏ chưa từng thua trận một lần mà vẫn được bọn cờ đỏ phất cho cái nhãn bại trận và phết cho hơn chục năm tù, người viết này như là kẻ điên. Không, chữ “như” này thừa. Người viết là kẻ điên, vì trở về chuyện đao binh chỉ thấy trong truyện lẩm cẩm của bọn bất đắc chí.

Thì viết, khi khách đã im lìm trong nỗi hậm hực khôn nguôi…


***


Cách nay một phần tư thế kỷ, Tháng Năm 1989, người viết được đọc một bài của Harry Summers trên tờ Atlantic.

Đại tá Harry Summers Jr. (1932-1999) là một sĩ quan Hoa Kỳ đã phục vụ xuất sắc các chiến trường Cao Ly và Việt Nam, rồi trở thành nhà chiến lược gia, giảng sư các trường võ bị. Cuối thời Việt Nam, ông tham gia việc thương thuyết để kết thúc chiến tranh với Hà Nội. Sau thời Việt Nam, ông viết sách, “On Strategy: A Critical Analysis of the Vietnam War” năm 1982, và “On Strategy II: A Critical Analysis of the Gulf War” năm 1992, viết báo, làm chủ biên tạp chí Vietnam Magazine, lập thư khố về Chiến tranh Việt Nam và đi thuyết trình ở nhiều nơi. Nhiều cựu chiến binh của chúng ta đều có biết hay đã đọc nhân vật này.

Vắn tắt, Harry Summers là tay bán văn bán võ và một nhà lý luận có thẩm quyền về binh pháp, chứ không thuộc loại “chỉ thượng đàm binh”, luận việc binh trên giấy.

Sở dĩ nhắc đến Harry Summers là vì trên số báo Atlantic đó, ông viết rằng một tuần trước khi Sàigon thất thủ thì ông đang ở… Hà Nội. Ra đó dàn xếp việc Mỹ ra đi cho êm thắm. Thế rồi, trước vẻ hợm hĩnh của kẻ đắc thắng, máu võ biền trong Harry Summers bỗng nổi dậy. Đại để: “Chúng tao không được phép thắng. Vả lại, Hoa Kỳ còn bom nguyên tử, một trái nhỏ cũng đủ kết thúc chiến tranh theo lẽ khác”.

Và đây là câu trả lời của một sĩ quan Hà Nội: “Mấy người có bom nguyên tử mà không xài thì cũng tựa như chẳng có bom!” Câu trả lời làm người lính chiến chưng hửng. Mà thấy đúng. Trong bài viết đó, Summers luận về chiến lược nguyên tử và chỉ kể lại giai thoại ở Hà Nội như một dẫn chứng mà thôi. Nhưng cũng đủ cho phe bại trận là chúng ta suy nghĩ về quân sự.

Vì thế mới có bài trái khoáy này….


***


Ngoài kia khách đã ngáy vang như Trương Phi, Lý Quỳ. Trong này, người viết bần thần luận tiếp.

Người Mỹ biết đếm mà chẳng biết đo. Họ đếm được từng tấn bom hay trái pháo và số chiến binh Việt cộng bị tử vong hay hồi chánh, để nhét vào phương trình của máy tính và xả ra dự báo về chuyện thắng bại. Nhưng khổ thay, họ chẳng đo được thực lực đôi bên.

Vào thời ấy, Hà Nội được các quan thầy tiếp vận dồi dào để đưa quân vào Nam qua “Đường mòn Hồ Chí Minh” trên lãnh thổ Lào và Miên.

Mỹ có hai cách để chặn đường tiếp vận của Hà Nội. Một là oanh tạc Hải Phòng, hai là tấn công hai đường thiết lộ từ Trung Quốc vào miền Bắc. Giải pháp Hải Phòng có rủi ro là gây thiệt hại cho tầu ngoại quốc. Giải pháp đánh bom đường rầy cũng khó ăn vì đường xe lửa cũng dễ sửa. Lại gặp rủi ro rơi trúng thằng Tầu bên kia biên giới!

Phi lý ban đầu của cuộc chiến nằm ở chỗ đó: Mỹ chỉ được đánh một tay mà không đụng vào xứ khác, nhất là Trung Quốc.

May là địa dư hình thể của Việt Nam lại cho bộ máy quân sự Hoa Kỳ một giải pháp khác.

Qua ngần ấy cửa tiếp vận của Liên Xô hay Trung Cộng, võ khí và nhân lực của Hà Nội đều phải chuyển vào Nam qua hai ngả là cầu Long Biên gần Hà Nội và cầu Hàm Rồng phía Bắc Thanh Hóa. Cuộc chiến Việt Nam nổi danh với việc Không quân và Hải quân Hoa Kỳ liên tục oanh kích hai mục tiêu đó - mà vẫn không phá hủy được hệ thống hậu cần của Cộng sản Bắc Việt. Tốn kém rất nhiều mà không thắng. Chưa kể là bị thế giới kết án là dội bom lên một nước nghèo!

Nếu chẳng giải quyết được hai mục tiêu cố định lù lù ấy thì làm sao tấn công cả ngàn mục tiêu di động trong rừng già nhiệt đới của Đường mòn HCM? 

Chỉ còn một cách là “thóa mạ phụ thân” của Averell Harriman. Nôm na là chửi cha Harriman, kẻ thi hành chính sách trung lập hóa nước Lào thời cậu ấm Kennedy khi Mỹ cần hòa dịu với Liên Xô vào thập niên 60. Tức là phải tấn công lãnh thổ Lào ở vùng tiếp vận với khu Phi quân sự Nam-Bắc trổ vào tỉnh Quảng Trị. Chuyện quái đản là dù rằng việc nước Lào trung lập chỉ còn là trò vui, Hoa Kỳ vẫn cứ tôn trọng điều dớ dẩn ấy. Cái ngu bất tận.

Bất lợi về quân sự lẫn chính trị và bị tổn thất rất cao, Hoa Kỳ rõ là bị thua về mặt quân sự, chưa nói đến nhiều mặt phi lý khác của cuộc chiến mà nước Mỹ xấn xổ nhảy vào đẩy đồng minh sang vị trí phù trợ! Đánh chỉ cầu hòa là cách thua tất yếu khi miền Bắc đánh cho cả khối cộng sản ở sau lưng, bằng máu xương dân Việt, theo kiểu “toàn cầu nhần”.

Chiến thuật không tập có thể giúp Hoa Kỳ yểm trợ các đơn vị tác chiến ở dưới, chứ không thể giải quyết nhu cầu phá vỡ hệ thống tiếp vận của địch: quá tốn kém về sinh mệnh và võ khí. Hàng trăm oanh tạc cơ bị bắn hạ và hàng triệu tấn bom là sự lãng phí làm Quốc hội và dân Mỹ hết kiên nhẫn.

Thế rồi, Tháng Tư năm 1972, Hoa Kỳ tìm ra phép lạ.

Đó là dùng bom khôn, từ loại bom có máy thu hình tới bom hướng dẫn bằng tia laser, để đóng chốt vào mục tiêu. Thả từ rất cao, trái bom tự tìm lấy mục tiêu phải dủy diệt, cho tới khi hai cây cầu lịch sử ấy bị hoàn toàn tê liệt. Hà Nội coi như phải bại trận từ đó. Cuối năm 1972, nhiều gia đình miền Bắc đã được lệnh xé khăn trắng để chuẩn bị đầu hàng, mà đảng gọi là “tạm ngưng bắn”.

Nhưng khi ấy lãnh đạo Hoa Kỳ cũng lại bị tê liệt: lòng dân đã đổi, Quốc hội lại hèn và truyền thông thì mạt, nên Mỹ không được thắng nữa mà phải tìm đường triệt thoái “trong danh dự”. Nghĩa là trong xương máu miền Nam.


***


Cộng sản đánh kiểu “toàn cầu nhần”, bằng tiếp vận của quan thầy và xương máu của nhân dân, và bằng sự đờ đẫn của đối thủ. Cái họ nhờ ghê nhất là Kennedy cho lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm, để Chính quyền Johnson cướp tay lái mà lại đánh chỉ cầu hòa. Hợp lý vô cùng, nhưng không phải đạo!

Bốn mươi năm sau, là ngày nay, thiên hạ mới tẻ ngửa, rằng chính Bắc Kinh mới lả kẻ dùng phép “toàn cầu nhần”. Dùng cả những kẻ huênh hoang chiến thắng năm 1.9.7.5. 

Không phải ư?